Để có thể ăn xà bông!

09:39 17/11/2011
NGUYỄN ĐÔNG NHẬT Trong Lời giới thiệu tác phẩm mới xuất bản của Phan Trung Thành, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã nhận xét rằng, tác giả của Ăn xà bông(*) đã rẽ ra được một lối đi cho riêng mình như kết quả của nỗ lực lao động nghệ thuật.
[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Đó cũng là lời nhắn gửi cho cho tất cả những nghệ sĩ chân chính: sự chối từ những vòng hoa cạm bẫy của thói hư danh. Ở lời bạt, nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm rọi ánh sáng giải mã cho tập thơ: ăn xà bông là cách mượn cái giả để nói lên một phần sự thật của cuộc sống.

Là một người đọc, tôi chỉ muốn bày tỏ… sự nhầm lẫn của bản thân khi mới chỉ nhìn cái bìa tập thơ: Trường ca hoạt họa là một loại thể như thế nào đây? Rồi, khi đọc được gần một phần tư tác phẩm, mới chợt nhận ra cái cảm giác sai lạc ban đầu: vẫn là thơ, thơ thực đấy, không hoạt họa hoạt hình gì cả. Hay nói khác, trường ca hoạt họa chỉ là cách nói “mượn bóng vẽ hình” đấy thôi.

Ở đây, là sự hòa trộn giữa truyền thống và hiện đại, nhưng không phải là hiện đại theo một cách nghĩ chưa chính xác lắm, ví dụ: Thơ là sự thể hiện kỹ thuật và thủ pháp ngôn ngữ. Hiện đại, chính xác hơn, là sự mới mẻ ở cách cảm, cách nghĩ của nhà thơ. Dường như, đấy cũng chính là một thực tế và là mục tiêu trong mọi lao động nghệ thuật: cái cũ và cái mới luôn luôn phải tồn tại song song trong tác phẩm, ở cả hình thức lẫn nội dung.

Điều đó thể hiện, trước hết, ở cấu trúc của tập thơ: Ăn xà bông gồm ba phần, rất rõ, tưởng thật đơn giản như… mở, thân và kết của một bài văn.

Nhưng phần I (mở lời), ngay lập tức, là một khái quát: “mang hồn ốc bò quanh sử tử”. Lịch sử CHẾT rồi, nhưng sao vẫn còn đòi trồi lên? Bởi vì, con người không thể thoát khỏi thời gian. Và, không thể quên. Chính vì thế, mà thi rất đau, con người rất đau: ?cơ cực thấu trời chữ viết trong mây” (trang 11). Ai cũng đau cả, kể cả những đối tượng ngỡ cần phải che đậy, những sự thật cần  phải giấu đi hoặc chí ít phải lảng tránh: “sợ gì cánh báo chí ghi hình/ các anh chị ấy cũng đang khóc”. Chính vì vậy, mà phải cố yêu, hạ giọng: “con lạy nốt phiêu bồng tứ ngả/ đừng đến đây nhóm chợ nhục/ vinh”. Nhưng làm sao có thể không nhóm cái chợ ấy, vì “cái quay búng sẵn lên trời” rồi, cho nên tất cả đều trở thành những kẻ lần mò: “đào đường lấp hố/ kiếng đen khẩu trang/ bụi đè lên bụi” (tr.13). Phần mở, vừa mới mở ra, đã có vẻ như phải đóng lại liền: tự do công dân là thứ sản phẩm xa xỉ của một xứ sở chỉ còn khả năng chờ: “bạn đến đây mời xơi xà bông/ đứng bên lề nghe ngóng/ đứng bên lề/ nghe/ ngóng” (tr.16). Đến đây, giọng thơ chuyển nhanh từ lời hát của trẻ con qua cách nói hiện đại, nói ngắn, ngắt nhịp liên tục tạo “những vết xước” sâu dần. Nhưng đáng chú ý là, vẫn còn tìm thấy niềm hy vọng, cái chỗ dựa quí giá cuối cùng để con người không bị chết chìm trong một không gian ngột ngạt: “vạn câu không sánh được/ bát cơm em xới/ mắt ngời đinh hương (tr.16).

Phần II (nói lời)
là một sự… bày hàng. Có đủ cả: từ sự thống trị của những… hình hoạt họa: “xin thề lũ ngáo ộp chúng tôi độc quyền nói dối” (tr.23) mà vẫn không quên trơ tráo: “khi nào cần thì chúng ta cà lăm” (tr.29). Từ những cái bóng không - hình chỉ biết ngậm tăm: ?kiếp trước ta là con hến/ chỉ nín” (tr.29). Đó là những hình - mang - dáng - người rơi vào âm mưu tranh đoạt ám hại: “con xe kia của bố/ cả trăm “chai” xin số/ sập hố/ đồng nghiệp giăng bẫy trong nhà thổ” (tr.34). Cái thế giới của những hình hoạt kia, trong nét miêu tả biếm họa, sao lại hết sức rõ - ràng - hiện - thực: “thượng tầng lẫn lộn quỉ ma/ bụng to mặt đỏ ệch à ễnh ương/ ban ngày là chúa là vương/ ban đêm là đám ăn lường tráo dân” (tr.36). Trong không gian của chốn ao đầm bùn ngập tận đầu, chúng “bò vào giấc ngủ mọi vật/ trườn qua giấc mơ lũ chủ/ leo tận nỗi sợ hãi mơ hồ” (tr.36). Nơi ấy, nơi của “toàn cầu thế giới a dua”, nơi chỉ còn lềnh bềnh những xác chết “rác rến rong rêu bao bịch bọc”, tất cả chỉ còn là “đám mộng du đi hàng hàng lớp lớp”. Thực ra, chúng không đi đâu hết (nếu đi, là để đến): chúng chỉ tồn tại như thập loại cô hồn. Mà chúng là ai? Là những hình nộm đang hí hửng nhảy múa kia ư? Vừa đúng, vừa không đúng: những bóng ma kia, ở một góc nhìn xa hơn, ở một tầng nghĩa khác, phải chăng, là… ảnh chiếu của phận người?

phần III (giải lời), người đọc có thể đón nhận được ngay lập tức sự giải mã của tác giả, về nguyên nhân của sự mê lầm của con người: những khẩu hiệu phỉnh phờ, những định kiến xé rách yêu thương… với sức mạnh ghê gớm của… bọt xà bông, một trong những căn ủy của khái niệm vô minh trong tư tưởng Phật giáo. Để thử “giải thoát” khỏi sự tăm tối của tâm thức, phương cách duy nhất là phải… ăn xà beng, sản phẩm “hoạt họa thế kỷ hai mốt/ chơi” (tr.74).

Nói là “chơi”, mà không phải: đó là trách nhiệm công dân. Xa hơn, là thái độ và hành vi của thi sĩ. Đó cũng là một chọn lựa đau đớn, (có chọn lựa nào mà không đớn đau, trừ những kẻ không… thèm chọn lựa?) khi phải nuốt vào những thất vọng để “hy vọng trở mình trên máng xối”, theo cái cách “rơi ngược/ bằng nhìn bầu trời qua ly nước/ bằng li li/ bằng lô lô” (tr.75). Để làm gì? Đơn giản thôi: để có thể có được “bản tường trình” về cuộc sống và “giấc mơ đi vắng”. Giấc mơ đi vắng ư? Lại cũng thêm một phủ định tiếp nữa: không phải là đi vắng, không phải sự lẩn tránh, mà, đi theo Dòng Sống của lịch sử, để nhìn thấy thật tường tận chân dung thực của cuộc sống…

N.Đ.N
(273/11-11)


.....................................
(*) Ăn xà bông - Thơ Phan Trung thành, NXB Hội nhà văn, 7.2011







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • GIÁNG VÂN

    Cầm trên tay tập thơ với bìa ngoài tràn ngập những con mắt và tựa đề “Khúc lêu hêu mùa hè”(*), một cái tựa đề như để thông báo về một cuộc rong chơi không chủ đích, và vì vậy cũng không có gì quan trọng của tác giả.

  • PHẠM PHÚ UYÊN CHÂU - PHẠM PHÚ PHONG

    Ở miền Nam trước năm 1975, những ai học đến bậc tú tài đều đã từng đọc, và cả học hoặc thậm chí là nghiền ngẫm Việt Nam văn học sử giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ - một trong những bộ sách giáo khoa tương đối hoàn chỉnh xuất bản ở các đô thị miền Nam, cho đến nay vẫn còn giá trị học thuật, nhất là trong thời điểm mà ngành giáo dục nước ta đang cố gắng đổi mới, trong đó có việc thay đổi sách giáo khoa.

  • KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY MẤT NHÀ THƠ NGUYỄN BÍNH (1966 - 2016)

    MAI VĂN HOAN

  • LÊ HỒ QUANG

    Nếu phải khái quát ngắn gọn về thơ của Nguyễn Đức Tùng, tôi sẽ mượn chính thơ ông để diễn tả - đấy là “nơi câu chuyện bắt đầu bằng ngôn ngữ khác”.

  • NGÔ MINH

    Ở nước ta sách phê bình nữ quyền đang là loại sách hiếm. Câu chuyện phê bình nữ quyền bắt đầu từ tư tưởng và hoạt động các nhà phê bình nữ quyền Pháp thế kỷ XX.

  • PHẠM XUÂN DŨNG

    (Nhân đọc cuốn sách Trước nhà có cây hoàng mai - Tập tùy bút và phóng sự về Huế - xứ sở phong rêu kiêu sa của Minh Tự, Nxb. Trẻ, TP HCM 2016)

  • TÔ NHUẬN VỸ

    Tại Hội thảo văn học hè hàng năm của Trung tâm William Joner - WJC, nay là Viện William Joiner Institute - WJI, thuộc Đại học Massachusetts - Hoa Kỳ, nhà thơ Võ Quê đã được chính thức mời giới thiệu nghệ thuật ca Huế.

  • Năm 1992, trong một cuộc gặp gỡ trí thức văn nghệ sĩ ở Vinh, nhà văn Ngô Thảo nói với tôi “cụ Phan Ngọc là nhà văn hoá lớn hiện nay”, lúc này ông không còn trẻ những cũng chưa già.

  • LÊ THÀNH NGHỊ

    Đầu năm 2002, nghĩa là sau Đổi mới khoảng mươi lăm năm, trên Tạp chí Sông Hương, có một nhà thơ nổi tiếng thế hệ các nhà thơ chống Mỹ đặt câu hỏi: Liệu Nguyễn Khoa Điềm có giai đoạn bùng nổ thứ ba của thơ mình hay không? Chắc chắn sẽ rất khó. Nhưng người đọc vẫn hy vọng*.

  • NGỌC BÁI

    (Đọc tiểu thuyết “À BIENTÔT…” của Hiệu Constant)

  • HOÀNG DIỆP LẠC

    Người ta biết đến Nguyễn Duy Tờ qua tập sách “Xứ Huế với văn nhân” xuất bản năm 2003, với bút danh Nguyễn Duy Từ, anh lặng lẽ viết với tư cách của một người làm ngành xuất bản.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊN

    Cô Kiều của Nguyễn Du từ khi xuất hiện trong văn chương Việt Nam đã nhận bao tiếng khen lời chê, khen hết lời và chê hết mực, nhưng cô vẫn sống trong niềm yêu mến của bao lớp người Việt, từ bậc thức giả đến kẻ bình dân, xưa đã vậy mà nay cũng vậy.

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH

    Bước chân vào con đường nghiên cứu văn học và hòa mình vào trào lưu lý thuyết đang trở nên thời thượng, chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism), nhưng Phan Tuấn Anh không biến nó thành cái “mác” để thời thượng hóa bản thân.

  • PHAN ĐĂNG NHẬT

    1. Sơ lược về cuộc đời và sự nghiệp Phan Đăng Lưu
    Phan Đăng Lưu sinh ngày 5/5/1902, tại xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An; con cụ Phan Đăng Dư và cụ bà Trần Thị Liễu.

  • KỶ NIỆM 70 NĂM NGÀY MẤT CỦA NHÀ THƠ BÍCH KHÊ (1946 - 2016)    

    PHẠM PHÚ PHONG

  • HỒ THẾ HÀ

    Nguyên Quân song hành làm thơ và viết truyện ngắn. Ở thể loại nào, Nguyên Quân cũng tỏ ra sở trường và tâm huyết, nhưng thơ được mọi người yêu quý và ngưỡng mộ hơn.

  • LA MAI THI GIA

    Những ngày cuối năm, Sài Gòn bỗng dưng cũng khác, sáng sớm khi băng qua cầu Thủ Thiêm vốn đã quá quen, tôi khẽ rùng mình khi làn gió lành lạnh từ dưới sông Sài Gòn thổi lên, hơi sương nhè nhẹ tỏa ra bao bọc cả mặt sông mờ ảo, bất chợt thấy lòng ngẩn ngơ rồi lẩm bẩm một mình “Sài Gòn hôm nay khác quá!”

  • PHAN HỨA THỤY

    Thời gian gần đây ở Huế, việc tìm kiếm lăng mộ vua Quang Trung đã trở thành một vấn đề sôi động.

  • LÃ NGUYÊN

    Số phận văn chương của Nguyễn Minh Châu gắn liền với những bước đi cơ bản của nền văn học Việt Nam ở nhiều thời điểm lịch sử cụ thể.

  • Chúng ta đã được biết đến, và đây là phương diện chủ yếu, về một Nguyễn Bính thi sĩ, và không nhiều về một Nguyễn Bính nhà báo gắn với tờ tuần báo tư nhân Trăm hoa (1955-1957)1.