Đào tạo lý luận, phê bình mỹ thuật - Ít nhưng vẫn khó tìm việc

20:48 31/12/2018

Trong lịch sử, chưa bao giờ Việt Nam có đội ngũ những người làm lý luận, lịch sử và phê bình mỹ thuật chuyên nghiệp như hiện nay, đóng góp các công trình nghiên cứu mỹ thuật từ giai đoạn cổ đến hiện đại một cách dày dặn, liên tục và xuyên suốt. Tuy nhiên, việc đào tạo nhân lực cho ngành lý luận, lịch sử và phê bình mỹ thuật đang đứng trước nhiều khó khăn.

Chuyên ngành hẹp, nhu cầu thấp

Trong giai đoạn đầu, lý luận, phê bình mỹ thuật có sự góp sức của các họa sĩ. Từ năm 1978, Khoa Lý luận và Lịch sử mỹ thuật của Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam ra đời, đào tạo các thế hệ làm nghiên cứu, phê bình mỹ thuật. Có thể thấy, nền tảng mỹ thuật Việt Nam non trẻ lúc đó đang có những manh nha trong tư tưởng “đổi mới” để đến năm 1986 “mở cửa” bùng phát mạnh mẽ. Bởi vậy, sự ra đời của khoa là khởi đầu tốt đẹp cho việc đào tạo một nền tảng kiến thức mỹ thuật mới.

Đến nay, 40 năm Khoa Lý luận và Lịch sử mỹ thuật (nay là Khoa Lý luận, Lịch sử và Phê bình mỹ thuật) với 19 khóa đào tạo, đã có những đóng góp nhất định cho nền mỹ thuật Việt Nam. Theo nhà phê bình Nguyễn Quân: “Lật lại báo chí trước những năm 1970, ta thấy sự hoang vắng tuyệt đối, có khi cả tháng mới có một tin, bài nhỏ. Ngày nay quảng bá, phê bình nghiên cứu mỹ thuật xuất hiện hàng ngày, dày đặc, phong phú. Nếu cả năm 1985 tôi chỉ thấy 1 đầu sách mỹ thuật thì bây giờ con số ấy tăng cả trăm lần. Đã có hàng chục công trình lịch sử mỹ thuật nghiêm túc được công bố…”. Còn theo Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam Trần Khánh Chương: Hội Mỹ thuật Việt Nam có giải thưởng Lý luận phê bình mỹ thuật cho các hội viên, trước đây giải thưởng chủ yếu cho bài viết, nay chủ yếu cho sách. Từ các bài viết ngắn cho đến các cuốn sách là giai đoạn dài. Ở đó có phần lớn đóng góp của Khoa Lý luận, Lịch sử và Phê bình cho mỹ thuật Việt Nam hiện đại.

Tuy nhiên, nhìn lại, ngành lý luận - phê bình mỹ thuật và việc đào tạo nhân lực cho ngành luôn đứng trước khó khăn, thách thức. Theo TS. Đặng Thị Phong Lan, Trưởng Khoa Lý luận, Lịch sử và Phê bình mỹ thuật, do là chuyên ngành hẹp, nhu cầu xã hội thấp, nên lịch sử 40 năm của khoa cũng là quá trình gian nan. Từ năm 2013, nhà trường cố gắng năm nào cũng tuyển sinh, nhưng sinh viên ngày một ít, thậm chí có khóa 1, 3, 5 em. Đã thế, trong quá trình học, sinh viên còn “rơi rụng” do chuyển sang học các ngành khác. Điều này do nhiều nguyên nhân: Sinh viên ra trường khó tìm được việc đúng chuyên ngành, hoặc gần chuyên môn nhưng thu nhập không bằng những ngành khác. Các tạp chí mỹ thuật ít và tiếp cận người đọc chưa rộng rãi, chủ yếu cho các trường mỹ thuật và người nghiên cứu, nhuận bút không bảo đảm... nên ít người theo lý luận, phê bình. Ngành lý luận, phê bình của Hội Mỹ thuật chỉ có khoảng 50 hội viên; trong khi đó, lực lượng phê bình mỹ thuật hiện nay chủ yếu là người không được đào tạo chuyên ngành.

Đổi mới chương trình đào tạo

Theo nhà phê bình Nguyễn Quân, việc thành lập Khoa Lý luận và Lịch sử mỹ thuật là cột mốc, không chỉ của Trường ĐH Mỹ thuật Việt Nam mà trong tiến trình phát triển khoa học xã hội nhân văn và văn hóa thẩm mỹ ở Việt Nam. “Khi chúng tôi thành lập khoa này, đây là khoa lý luận và lịch sử mỹ thuật đầu tiên ở Đông Nam Á. Việc thành lập khoa lúc ấy gây tranh cãi bởi thực chất, môn này được coi là môn khoa học xã hội nhân văn, không phải môn mỹ thuật, và đều đặt ở trường tổng hợp. Đặt ở trường mỹ thuật bất lợi vì bị tách ra khỏi môi trường sống của nó là khoa học xã hội nhân văn, nhưng có cái lợi là nó gắn bó trực tiếp với đời sống mỹ thuật cụ thể, và những người học khoa này có thực hành và có lý thuyết về thực hành nghệ thuật”. Để phát huy thế mạnh và khỏa lấp khuyết yếu của khoa khi đặt ở trường mỹ thuật, lãnh đạo khoa đã thu hút “chất xám” của các ngành khoa học xã hội nhân văn qua việc mời các nhà nghiên cứu đầu ngành giảng dạy, cung cấp cho sinh viên nền tảng xã hội nhân văn.

Theo nhà nghiên cứu Phạm Trung, Phó Viện trưởng Viện Mỹ thuật, nếu không có khoa đào tạo về lý luận, phê bình mỹ thuật, công việc nghiên cứu sẽ trở thành tự phát như những năm đầu thế kỷ. Bên cạnh đó, theo nhiều ý kiến, việc đào tạo những người làm lý luận không chỉ để đồng hành với sáng tác, mà còn đóng góp cho đời sống văn hóa của đất nước, hàm lượng khoa học của phê bình lớn nhất trong các công trình nghiên cứu lịch sử nghệ thuật. Do đó, cần duy trì đào tạo, bằng cách thay đổi phương thức cho phù hợp với thời đại mới, trong thực tế văn hóa mỹ thuật mới, và trong vận động của văn hóa đại chúng, kinh tế thị trường.

Theo Ngọc Phương - ĐBND

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Thuở hàn vi, nhà sử học, nhà văn Ngô Thì Sĩ (1726 - 1780) “túi rỗng bếp lạnh”, “một đồng tiền cũng chẳng dính tay” có viết Bài văn trách ma nghèo tuyệt hay.

  • Được mệnh danh là nhà thờ lớn và đẹp nhất vùng Đông Bắc Việt Nam, nhà thờ Trà Cổ (TP Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh) đã bị phá bỏ ngày 9/3/2017 để xây mới.

  • Thời gian qua, vấn đề dạy chữ Hán (tức mảng từ Việt Hán) trong nhà trường được báo chí đề cập nhiều lần và dư luận quan tâm.

  • Khi nhắc đến tranh chép hay công việc chép tranh, nhiều ý kiến khắt khe cho rằng, chính những bức tranh chép đã làm lũng đoạn thị trường hội họa và ảnh hưởng xấu đến nền mỹ thuật nước nhà.

  • Nhờ facebook, tôi mới biết ngày hôm qua là Ngày Hạnh phúc. Chợt bần thần nhớ lại những kỷ niệm về hạnh phúc, vào cái thời ở ta chưa có ngày nào được gọi là Ngày Hạnh phúc...

  • Chúng ta không im lặng, chúng ta phải lên tiếng trước những điều tồi tệ, vô nhân đạo, nhất là khi chúng liên quan đến những đứa trẻ ngây thơ chưa đủ nhận thức để tự bảo vệ mình. Nhưng...

  • Mạng xã hội đang ngày càng phổ biến trong đời sống và không chỉ là kênh kết nối chia sẻ, giao lưu giữa các cá nhân. Trên thực tế, mạng xã hội đang có những tác động lớn đến hoạt động kinh doanh của các tổ chức, doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung.

  • Sức hút của “lễ hội hoa hồng” đang diễn ra ở Hà Nội có lẽ không ảnh hưởng đến những người làm văn nghệ. Họ đang quan tâm tới những thông tin xung quanh việc xét giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Hình như chưa đợt xét giải thưởng nào lại náo động như lần này.

  • Đó là những trăn trở của Chủ tịch UBND TP.HCM Nguyễn Thành Phong tại buổi làm việc với Sở Văn hóa Thể thao, Sở Du lịch cùng giám đốc các bảo tàng trên địa bàn TP hôm 2.3.

  • Nhiều bức tường xám xịt, loang lổ nắng mưa trên các con hẻm, con đường Sài Gòn đang được các “họa sĩ đường phố” khoác lên những sắc màu mới.

  • Trong dịp tết vừa qua, tại TPHCM, sàn diễn cải lương khá heo hút. Ngoại trừ chương trình nghệ thuật Ba thế hệ về lại cội nguồn do NSƯT Kim Tử Long đứng ra thực hiện, có bán vé tại rạp Công Nhân vào ngày 6-2, cùng với vài buổi diễn của các nghệ sĩ Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang ở cơ sở thì không còn nơi nào tổ chức.

  • Nhiều tác giả cám cảnh người đọc đìu hiu ở các khu trưng bày tác phẩm trong Ngày thơ Việt Nam lần thứ 15 tại TP HCM.

  • GS Đỗ Quang Hưng, Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn về Tôn giáo - UBTƯMTTQ Việt Nam và TS Trần Hữu Sơn - Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam đều cho rằng: "Lễ hội không có tội mà một bộ phận con người đã lợi dụng và làm hỏng nó đến mức này như một căn bệnh trầm kha khó chữa đã 15 năm nay".

  • Nhiều người trẻ cả tin, mê tín “cúng” tiền cho thầy bói để rồi lo âu, thấp thỏm...

  • VĨNH AN

    Trong bài viết trên báo Nhân dân số 2082, ngày 28/11/1959, ký tên Trần Lực, Bác Hồ đã phát động “Tết trồng cây”: “Chúng tôi đề nghị tổ chức một ngày “Tết trồng cây”. Việc này ít tốn kém mà lợi ích rất nhiều”.

  • Văn Miếu - Quốc Tử Giám những ngày này gây sốt bởi di tích rêu phong được thay bằng màu xám trắng mới tinh. Mặc lời trấn an của những người có trách nhiệm, công chúng vẫn có quyền đặt câu hỏi.

  • “Tại sao trong lựa chọn giữa bảo tồn và phát triển đô thị thì phần thua thiệt thường rơi về phía bảo tồn?”, TS khảo cổ học Nguyễn Thị Hậu đặt câu hỏi trong Hội thảo quốc tế Việt Nam học ngày 15 - 16.12 tại Hà Nội.

  • Thiết chế văn hóa đang hàng ngày, hàng giờ đồng hành với đời sống nhân dân và là một phần không thể thiếu của xã hội. Có thể kể đến một số thiết chế văn hóa phổ biến ở đô thị nước ta như bảo tàng, thư viện, nhà hát, rạp chiếu phim…

  • Sự biến mất của Hanoi Cinémathèque, một địa chỉ xem phim nghệ thuật đã có lịch sử gần 15 năm giữa lòng thành phố, đặt ra câu hỏi về sự thân thiện và nhạy cảm với văn hóa của các chính sách phát triển đô thị.