Đại tá, nhạc sĩ Đức Tùng - Người con ưu tú của Huế đẹp và kiên cường

08:53 27/05/2009
LÂM TÔ LỘCĐại tá - nhạc sĩ Đức Tùng, sinh năm 1926 tại Huế đẹp và thơ, đã mãi mãi xa quê: Ông mất ngày 25/01/2003. Ông viết ca khúc từ trước Cách mạng tháng Tám như Kỷ niệm ngày hè, Bên trời xa, Dòng Dịch thủy, Dưới ánh trăng mơ. Ông đã từng biểu diễn ca nhạc tại nhà hát Accueil, là cây Accordéon cầm chịch của ban nhạc gia đình ở phố Hàng Bè.

Đang học năm thứ hai ban tú tài, chàng trai xứ Huế này xếp bút nghiên, tham gia Đoàn Thanh niên cứu quốc. Là đội trưởng tự vệ chiến đấu, ông tham gia cướp chính quyền ở Huế (tháng 8 năm 1945). Người cùng thời với Nguyễn Văn Thương trong Liên đoàn văn hoá cứu quốc Huế, với một giọng nam cao (ténor) đẹp, ông hát vai "chiến sĩ" trong kịch hát "Ra đi vì nước" của nhạc sĩ này.

Năm 1946 ông vào Quảng Ngãi công tác tại phân ban thiểu số Tây Nam Trung Bộ, năm sau nhập ngũ, năm 1948 làm Phó Trưởng ban địch vận khu XV rồi làm bí thư ở Văn phòng Bộ Tư lệnh Liên khu V. Tham gia phái đoàn quân sự Liên khu V ra Việt Bắc công tác, năm 1950 ông được cử đi học pháo binh ở Trung Quốc. Về nước ông tham gia các chiến dịch Hoà Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, Điện Biên Phủ. Lại được cử sang Liên Xô (cũ) học tên lửa phòng không (1), ông về làm tham mưu trưởng rồi trung đoàn trưởng một số trung đoàn phòng không. Ít lâu sau, ông về làm giảng viên của Học viện Quốc phòng với quân hàm đại tá cho đến lúc nghỉ hưu. Trong cuộc đời hoạt động của mình ông được tặng nhiều huân chương: 3 huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng nhất, nhì, ba, 2 huân chương chiến công hạng ba, huân chương giải phóng hạng ba, huân chương chiến thắng hạng nhì, huân chương chống Mỹ hạng nhất và huân chương quân công hạng nhì. Huy chương thì nhiều. Tuy trên ngực đại tá Đức Tùng lấp lánh nhiều loại huân chương qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ông vẫn cảm thấy tự hào về những đóng góp cho phong trào âm nhạc của Liên khu V thời kháng chiến chống Pháp.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ trong bức thư gửi Đại hội Đoàn kết kháng chiến của các dân tộc thiểu số Nam Trung Bộ họp tại Pleiku (1946) Đức Tùng viết ca khúc "Quân dân thiểu số kháng chiến". Bài hát tiếng Kinh được dịch ra tiếng Edê, Bana nên nhanh chóng được phổ biến.

Năm 1947 ông viết tiếp "Tây nguyên hành khúc" bài hát bừng bừng khí thế của những đoàn cán bộ dân, chính, đảng lên cao nguyên Tây Nam Trung Bộ công tác. Nó trở nên quen thuộc với các đơn vị chiến đấu ở Tây Nguyên, đi vào lòng cán bộ, bộ đội, tạo nên một sức mạnh như Nguyên Hà đã viết trong bài báo "Sức mạnh tinh thần của một bài ca". Bài hát được sử dụng trong phim "Đất nước đứng lên" của nhà văn Nguyên Ngọc và được ca ngợi trên báo chí.

Trong hai năm 1948-1949 ông viết chùm ca khúc "Em Yuk", "Chu Ro", "Hận núi rừng". Sợi chỉ đỏ xuyên suốt nội dung các ca khúc là truyền thống đấu tranh của các dân tộc ít người ở Tây Nguyên. Hình thức đấu tranh của họ có thể khác nhau nhưng mục đích cuối cùng giống nhau: đó là trả thù nhà, đền nợ nước, giải phóng quê hương khỏi sự áp bức của bọn thực dân Pháp.

"Em Yuk", với ba lời ca theo lối kể chuyện (récitatif), gợi nhớ lại câu chuyện một em bé dân tộc Giẻ, vì giặc Pháp giết cha em, đã chờ thời cơ phục kích giết hai tên giặc Pháp bằng lựu đạn và em hy sinh. NSND Tường Vi, bằng nghệ thuật biểu diễn của mình, đã tạo cho bài hát này một sức mạnh truyền cảm.

Bài "Chu Ro" nói về một thủ lĩnh phong trào "nước vía" mượn các hình thức tín ngưỡng dân gian để che mắt bọn Pháp, hai cha con Chu Ro và Chu Hoi tổ chức những buổi hiến tế tại làng Đông Đor để tập hợp quần chúng. Hàng vạn người Thượng và Kinh đoàn kết chống Pháp. Công việc bại lộ. Chu Ro bị Pháp bắt giam vào nhà tù Lao Bảo. Thông qua lời nhân vật (Lệ Xuân viết lời của ca khúc này) Đức Tùng chia sẻ nỗi đau của một chiến sĩ cách mạng khi chí lớn chưa thành. Giai điệu phảng phất nỗi buồn uất hận của Chu Ro; chất bi hùng toát ra từ giai điệu và tiết tấu âm nhạc càng tăng sức gợi cảm của bài hát.

Ở ca khúc "Hận núi rừng" Đức Tùng phát hiện một Tây nguyên bị thực dân Pháp áp bức bóc lột, muốn vùng lên dưới ngọn cờ của Đảng. Hai mươi lăm năm sau, dự cảm của nhạc sĩ về một Tây Nguyên đồng khởi đã trở thành hiện thực.

Năm ca khúc nói trên về Tây Nguyên cho thấy bước tiến rõ rệt về nghệ thuật của Đức Tùng, từ phương pháp khai thác đề tài đến phương pháp thể hiện bằng ngôn ngữ âm nhạc (chùm ca khúc "Em Yuk, "Chu Ro", "Hận núi rừng" đậm màu sắc dân tộc).

Ở Liên khu V vào nửa cuối thập kỷ 40 những cây bút viết về Tây Nguyên không nhiều, nếu không muốn nói là rất hiếm, vì ở tác phẩm của các nhạc sĩ nổi tiếng thời bấy giờ như Vân Đông, Phan Huỳnh Điểu, Dương Minh Ninh thiếu vắng nội dung âm nhạc này. Có thể nói những ca khúc sớm nhất về Tây Nguyên anh dũng trong kháng chiến chống Pháp là sáng tạo độc đáo của cố nhạc sĩ Đức Tùng - nguyên Chi đoàn trưởng Chi đoàn Nhạc sĩ khoá I Liên khu V (thuộc Chi hội văn nghệ Liên khu V).

Đức Tùng còn viết về lực lượng vũ trang. Bài "Sinh quân ca", viết năm 1948 theo yêu cầu của một trường huấn luyện quân sự, nhằm động viên tinh thần học tập để "rồi ra chiến chinh, non sông đang chờ chiến công huy hoàng". Vì dễ hát "Sinh quân ca" trở thành bài hát tập thể của sinh quân trong các sinh hoạt lớp.

Sau nhiều năm công tác ở binh chủng phòng không không quân, với những cương vị chỉ huy, đại tá Lê Đức Tùng viết bài "Đoàn Sóc Sơn" nói về một đơn vị anh hùng: Trung đoàn tên lửa phòng không 275. Mặc dù không lực Huê Kỳ dùng "thần sấm, con ma, không người lái thấp cao", cả "pháo đài bay, thần lực sĩ cũng tan thây" Đức Tùng đã khái quát những cuộc không chiến bằng hình tượng âm nhạc "Vút lên trời cao, tên lửa phòng không trung đoàn chúng ta xé bao tầng mây, diệt lũ cướp trời, bảo vệ vùng trời ta", "Đoàn Sóc Sơn" trở thành đoàn ca của đơn vị anh hùng ấy. Những ca khúc nói trên có sức sống nghệ thuật của chúng vì đáp ứng yêu cầu chính trị - tư tưởng của các đơn vị bộ đội.

Tác phẩm của Đức Tùng không chỉ có màu đỏ của lửa đấu tranh cách mạng mà còn có màu xanh của cuộc sống hoà bình ở những nơi non nước hữu tình. Cho dù có một thời ông không làm công tác âm nhạc mà trực tiếp chiến đấu ngoài mặt trận như các chiến sĩ, con người nghệ sĩ trong ông trỗi dậy trước những cảnh đẹp của đất nước với những ca khúc trữ tình.

Về bờ xe nước trên sông Trà Khúc - một thắng cảnh của Quảng Ngãi - có lẽ Đức Tùng là người đầu tiên viết nhạc và Vân Đông đặt lời I, Hạo Nhiên đặt lời II. Trên báo "Le Courrier du VietNam", Hạo Nhiên giới thiệu ca khúc này với bạn đọc nước ngoài. Theo cung Ré trưởng (D). "Bên xe nước" của Đức Tùng được dựng thành vũ khúc cho nữ sinh trường trung học phổ thông Lê Khiết và dùng làm khí nhạc của một số ban nhạc ở Liên khu V. Đức Tùng rất yêu thơ của Hạo Nhiên cũng như nhà thơ này rất yêu nhạc của Đức Tùng. Họ đã kết duyên nghệ thuật với nhau ở hai tình ca "Bên sông Sài Gòn” (1991) và "Chiều Huế tím" (1993).

"Bên sông Sài Gòn" thể hiện sự bồi hồi, xao xuyến của một chàng trai đang nhớ tới người yêu phương xa, ước mơ sẽ có ngày gặp lại. Tác giả viết ca khúc này tặng T.S - bạn đời của mình - khi ông đang công tác tại Sài Gòn. Cùng là những chàng trai xứ Huế, xa quê vì nhiệm vụ kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ, Đức Tùng và Hạo Nhiên nói đến một thoáng quê hương "Chiều Huế tím" giới thiệu một mối tình thầm lặng sâu kín mà không kém phần cháy bỏng "chưa dám một lần khẽ nói... một lần trao thư".

Trong chùm tình ca của Đức Tùng không thể không nhắc đến "Ánh mơ" theo lời thơ của Nguyễn Sanh. Nhà thơ ca ngợi những hoa tuyết trắng vì muốn nói đến "Tuyết", tên người yêu của mình. Đồng cảm sâu sắc với mối tình đẹp của một chiến sĩ đồng đội, Đức Tùng viết ca khúc này sau khi nghe bài thơ của Nguyễn Sanh.

Qua "Bên xe nước". "Bên sông Sài Gòn", "Chiều Huế tím", "Ánh mơ" người nghe cảm thấy nhạc của ông vẫn trẻ và có thể rung động được những trái tim đang yêu.

Toàn bộ ca khúc của nhạc sĩ người Huế này biểu lộ hai tính cách âm nhạc:
- Một Đức Tùng của những tráng ca rực lửa đấu tranh,
- Một Đức Tùng của những khúc hát lắng đọng tình đời

Cũng qua đó tác giả thể hiện quan điểm nghệ thuật của mình về tình ca. Những hình tượng âm nhạc trang nhã, thanh tao của ông vẫn có công chúng vì đó là nhu cầu văn hoá của những người thanh lịch.

Nhạc sĩ Đức Tùng - người con xứ Huế đẹp và thơ, đã mãi mãi đi xa nhưng nhạc phẩm của ông vẫn còn đọng lại trong trí nhớ của những người cùng thời đã chiến đấu anh dũng trên chiến trường Liên khu V. Để tưởng nhớ một đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam suốt đời gắn bó với quân ngũ và ghi nhận những cống hiến về âm nhạc cho cuộc kháng chiến của Tây Nguyên anh dũng, nhà xuất bản Âm nhạc giới thiệu với bạn đọc tuyển tập "Tây Nguyên hành khúc" của cố nhạc sĩ Đức Tùng (2003) và một album CD.

L.T.L
(173/07-03)

---------------------                                                                   
(1) Ông là người Châu Á duy nhất được chọn vào dàn đồng ca của Liên Xô và được mời độc tấu guitare hawaienne tại Kiev (Ukraina)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản” do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức.

  • VIỆT ĐỨCCâu trả lời đầu tiên vẫn thuộc về môi trường sinh hoạt âm nhạc. Hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh mỗi đêm có đến 50 tụ điểm ca nhạc hoạt động với cơn sốt ca sỹ leo thang đến chóng mặt.

  • Dương Bích HàCũng như các loại hình nghệ thuật khác, nền âm nhạc cổ truyền luôn tồn tại hai dòng: âm nhạc bác học và âm nhạc dân gian.Ở Huế, trên một thế kỷ là kinh đô của triều đại phong kiến Việt Nam, nên đặc biệt, tính chất này được bộc lộ rất rõ và triệt để, là nơi phân chia rạch ròi nhất các giai tầng trong xã hội, trong văn hóa nghệ thuật.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNgày xưa, xã hội Việt Nam thực hiện nguyên tắc “phụ truyền tử kế” (cha truyền con nối), cho nên ông nội tôi - cụ Nguyễn Đắc Tiếu (sinh 1879), người làng Dã Lê chánh, xã Thủy Vân, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, lúc mới lên mười tuổi, đã được cố tôi (lính trong đội Nhã nhạc Nam triều) đem vào Đại nội học Nhạc cung đình (Musique de Cour).

  • PHAN THUẬN THẢONhã nhạc là loại hình âm nhạc chính thống được sử dụng trong các cuộc tế, lễ của các triều đình quân chủ ở Việt Nam và một số nước khu vực Đông Á. Trong các cuộc triều hội, cúng tế, âm nhạc luôn theo suốt quy trình của buổi lễ, từ lúc mở đầu cho đến hồi kết thúc. Nó tham gia vào từng tiết lễ, là một thành tố không thể thiếu của cuộc lễ, đồng thời, là phương tiện giúp con người giao tiếp với thế giới thần linh. Loại hình âm nhạc này được các triều đại quân chủ hết sức coi trọng, được phát triển thành một thứ quốc nhạc và là một trong những biểu tượng cho sức mạnh của vương quyền và sự vững bền của triều đại.

  • THÂN VĂN1. Phương thức liên kết về bài bản.Đặc điểm chung nhất của hệ thống bài bản hòa tấu nhạc cung đình thường là ngắn gọn, gắn liền và phù hợp với các ca chương trong mỗi nghi thức tế lễ. Những nghi thức này được tiến hành theo một trật tự trang trọng và nghiêm ngặt, nên mỗi bài bản ca chương và âm nhạc buộc phải trình tấu đúng với thời gian cho phép của từng nghi thức. Những bài bản này đương nhiên hoàn toàn độc lập về nội dung, nhưng do nằm trong một trật tự trình tấu nối tiếp liên tục, nên ngẫu nhiên đã hình thành các thể loại liên hoàn khúc khác nhau. Trong đó, độ dài, ngắn của mỗi liên hoàn khúc, tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của cuộc lễ, tuỳ thuộc vào số lượt nghi thức và số ca chương mà cuộc lễ quy định.

  • YAMAGUTI OSAMUTháng Giêng năm 1994, trong lúc đang còn ngất ngây hương vị Tết, thì đột nhiên điện thoại và fax từ Paris đến tới tấp. Đó là vì UNESCO đã nhận lời yêu cầu của chính phủ Việt Nam để mở một Hội nghị Quốc tế thảo luận về vấn đề nên làm gì và cái gì có thể làm được để bảo tồn và phát huy tài sản văn hoá vô hình của Việt Nam, vì vậy họ muốn mời tôi tham gia hội nghị và đưa ra đề nghị cụ thể. Ông Tokumaru Yosihiko (giáo sư của Đại học Nữ Ochanomizu, lúc đó còn là Trưởng khoa của Khoa Văn hoá- Giáo dục) cũng nhận được lời mời như vậy, nên tôi đã liên lạc với ông và cả hai quyết định nhận lời mời này.

  • VIỆT HÙNGCuộc toạ đàm với chủ đề Sự cần thiết phải thành lập nhạc viện ở Huế vừa diễn ra vào ngày 10/3/2004. Đây là một trong những hoạt động nằm trong khuôn khổ của Trại sáng tác khí nhạc dân tộc và phê bình lý luận âm nhạc, do Chi hội Nhạc sĩ Việt Nam Thừa Thiên Huế phối hợp với Trường Đại học Nghệ thuật Huế tổ chức từ 9/3 đến 17/3/2004.

  • THÂN VĂNSau hơn 2 tháng phát động và 9 ngày chính thức dự trại (từ ngày 09 đến 17/3/2004), với 14 tác phẩm khí nhạc dân tộc và 5 tác phẩm lý luận phê bình âm nhạc của 17 nhạc sĩ có mặt tham dự trại. Lễ bế mạc chiều ngày 17/3/2004 Trại sáng tác khí nhạc dân tộc & lý luận phê bình âm nhạc tại Huế đã gây được ấn tượng tốt đẹp và những tín hiệu đáng mừng trong lòng nhân dân Cố Đô. Điều đáng nói là các nhạc sĩ của Hà Nội, Huế và TP.Hồ Chí Minh đã gặp nhau từ một ý tưởng sáng tạo chủ đạo là nhằm tôn vinh và phát huy các giá trị của di sản văn hoá phi vật thể và truyền khẩu ở Huế, góp phần định hướng cho mô hình và mục tiêu đào tạo của Nhạc viện Huế trong tương lai.

  • TRẦN VĂN KHÊNhạc Cung đình là một bộ môn nhạc truyền thống Việt Nam dùng trong Cung đình. Nhưng người sáng tạo và biểu diễn Nhạc Cung đình hầu hết là những nhạc sĩ, nghệ sĩ từ trong dân gian, có tay nghề cao, được sung vào Cung để phụng sự cho Triều đình. Nhạc Cung đình Huế là một bộ môn âm nhạc truyền thống Việt Nam rất đặc biệt và có một giá trị lịch sử, nghệ thuật rất cao.

  • THÁI CÔNG NGUYÊNMột nhà văn nước ngoài khi đến thăm Huế đã nói: “Huế là một bảo tàng kỳ lạ chứa đựng trong lòng mình những kho tàng vô giá, những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần Việt Nam”. Đúng vậy, bên cạnh kho tàng di sản văn hóa kiến trúc đồ sộ có giá trị tầm vóc quốc tế, Huế còn là một tụ điểm di sản văn hóa tinh thần phong phú, một vùng văn hóa Phú Xuân đặc sắc “Huế đẹp và thơ” nổi tiếng.

  • PHÙNG PHUNgày 07 tháng 11 năm 2003, ông Koichiro Matsuura, Tổng Giám đốc UNESCO đã chính thức công bố trong một buổi lễ long trọng nhân kỳ họp toàn thể lần thứ 32 của Ðại hội đồng UNESCO tại Paris: UNESCO đã ghi tên 28 Kiệt tác vào Danh mục Kiệt tác Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại.

  • LTS: Đại hội khoá II (nhiệm kỳ 2003 - 2008) của Chi hội Nhạc sỹ Việt Nam Thừa Thiên Huế vừa diễn ra vào trung tuần tháng 9. Nhạc sỹ Hồng Đăng, Phó Tổng thư ký Hội Nhạc sỹ Việt Nam, thay mặt cho BCH Hội Nhạc sỹ Việt Nam vào tham gia chỉ đạo Đại hội. Tại Đại hội, nhiều tham luận, ý kiến phát biểu của các nhạc sỹ đã thể hiện được sự trăn trở về thực trạng và hướng phát triển của nghệ thuật âm nhạc đương đại Huế. Sông Hương xin trích đăng một số ý kiến đã trình bày tại đại hội.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ Năm nay (2003), nhạc sĩ Trần Hữu Pháp (NSTHP) “mới” tròn 70 tuổi, nhưng dễ đã mấy chục năm, sau khi nhạc sĩ Trần Hoàn rời Cố đô ra Hà Nội nhận các trọng trách, NSTHP nghiễm nhiên ngồi “chiếu trên”, là “già làng” của giới âm nhạc Thừa Thiên Huế. Kể cũng phải; từ bốn mươi năm trước, khi hàng triệu thiếu nhi miền Bắc đội mũ rơm dắt lá nguỵ trang đến trường, miệng líu lo ca bài hát ông vừa sáng tác “Tiếp đạn nào / Tiếp đạn chuyền tay trên chiến hào / Cho chú dân quân bắn nhào phản lực...” thì không ít các nhạc sĩ nổi danh bây giờ có lẽ còn... bú mẹ! Vậy mà trước mắt tôi (và chắc là với không ít người nữa) - nói ông anh đừng giận nhé - vị nhạc sĩ lão làng này lại rất...trẻ con!

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Người ta thường nhắc tới Thái Quý như nhắc tới một con người giàu tình cảm, dễ khóc, dễ cười, dễ nóng giận và cũng rất vị tha. Nói đến khuyết điểm của mình trong cuộc họp, anh khóc đã đành, nhưng khi chỉ trích khuyết điểm của đồng đội, anh cũng khóc...

  • NGUYỄN THANH TÚNăm ngoái, tôi tình cờ gặp nhạc sĩ Thái Quý khi ông đang bận rộn chỉ đạo "đoàn thành phố Huế" trước giờ ra sân khấu tham gia hội diễn ca múa nhạc công - nông - binh - trí thức do tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức tại nhà hát Trung tâm Văn hoá.

  • VĨNH PHÚCNếu kinh đô Thăng Long xưa từ trong cung phủ đã có một lối hát cửa quyền phát tán thành một dòng dân gian chuyên nghiệp là hát Ả đào và vẫn thịnh đạt dưới thời vua Lê chúa Trịnh, thì kinh đô Phú Xuân sau này, hoặc là đã từ trong dinh phủ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phát tán thành một lối gọi là Ca Huế (gồm cả ca và đàn). Vậy cũng có thể gọi Ca Huế là một lối hát Ả đào của người Huế, một lối chơi của các ông hoàng bà chúa xét trên quan điểm tiếp biến trong tiến trình của một lối hát truyền thống và tiến trình lịch sử từ Thăng Long đến Phú Xuân-Huế.

  • VĂN THU BÍCHTừ bao đời nay, tình yêu Huế vẫn mãi chìm sâu trong lòng những người con xứ Huế, dù đang sống trên đất Huế hoặc đã biền biệt xa xứ và Huế mộng mơ cũng len nhẹ vào hồn du khách khi đến thăm vùng đất thần kinh này.

  • TRẦN NGỌC LINHBạn còn thương bạn biết gửi sầu về nơi mô?Trước khi tôi vào Huế, chị tôi dặn: “Vào muốn gặp bà Minh Mẫn cứ đến đường Nhật Lệ mà hỏi”. Theo cách nhớ đường của một người viễn khách từ xa đến thì đến phố đó cứ thấy đầu ngõ nào có một giàn hoa tử đằng với những dây hoa buông thõng chấm xuống nền đất vỉa hè thì đó chính là lối rẽ vào ngõ nhà danh ca Minh Mẫn.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNGọi tên hoa súng: LỤC HÀGọi thôn LIỄU HẠ: quê nhà bên sôngGọi TRẦN KIÊM: họ sắc... khôngGọi HÀ THANH: tiếng hát dòng Hương Giang