Được sự cho phép của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, từ ngày 7/10/2016, Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên Huế đã phối hợp với Viện Khảo cổ học mở hố thám sát thăm dò dấu vết lăng mộ vua Quang Trung tại gò Dương Xuân (Trường An, TP Huế) với diện tích 22 m2.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân
Mặc dù đã ở cái tuổi 80 nhưng từ khi các hố thám sát được mở cho đến khi kết thúc (7-15/10/2016), hầu như ngày nào nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cũng xuất hiện ở khu vực chùa Thuyền Lâm, chùa Vạn Phước… thuộc phủ Dương Xuân xưa.
Ông cho biết: Tôi rất vui bởi dấu vết, hiện vật xuất hiện trong 5 hố thám sát đều có dấu hiệu một quần thể kiến trúc với đời sống cao cấp khớp với chứng minh của mình trong quá trình nghiên cứu công trình: Đi tìm dấu tích Cung điện Đan Dương-sơn lăng của Hoàng đế Quang Trung.
Mở đầu cho hành trình 30 năm Đi tìm dấu tích Cung điện Đan Dương, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đã nhắc lại chuyện sau năm 1975, Thủ tướng Phạm Văn Đồng vào thăm Huế nói với trí thức Huế rằng: “Sau ngày thống nhất đất nước may ra còn có Huế để đối ngoại về văn hóa”.
Câu nói đó cho thấy một điều: Di sản văn hóa Huế đóng một vai trò rất quan trọng đối với đất nước..
Tâm đắc với điều này, từ đó cho đến nay nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đã bỏ công sưu tập tư liệu, nghiên cứu về văn hóa Huế. Trong hơn 60 đầu sách đã được xuất bản, có hai công trình mà ông dày công hơn cả, đó là Đi tìm dấu tích thời niên thiếu Bác Hồ ở Huế (NXB Văn học 2003) và Đi tìm dấu tích Cung điện Đan Dương – sơn lăng của Hoàng đế Quang Trung (NXB Thuận Hóa 2007, tái bản năm 2015).
Đối với công trình Đi tìm dấu tích Cung điện Đan Dương – sơn lăng của Hoàng đế Quang Trung, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho biết: Do lăng mộ vua Quang Trung đã bị triều Nguyễn “tận pháp trừng trị” và cấm thần dân nhắc đến, vì thế những nhà nghiên cứu tiền bối hoạt động thời Nguyễn không dám đả động đến lăng mộ vua Quang Trung. Nếu vô tình gặp phải thì tránh, thậm chí có người còn làm nhiễu thông tin, đánh lạc hướng đi nữa.
Để giải mã "bí ẩn lịch sử" này sau khi đọc lại những lời chú, lời dẫn trong thơ văn của các trọng thần thời Quang Trung là Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đã đề ra cho mình hướng nghiên cứu mới.
Trong bài thơ “Cảm Hoài” Ngô Thì Nhậm sáng tác năm 1792 khi được cử sang Trung Quốc báo tang vua Quang Trung và cầu phong cho vua Cảnh Thịnh, ở câu 8 đã viết: Đan Dương cung điện nhật tam thu (trông về Cung điện Đan Dương một ngày coi bằng ba thu), tác giả đã chú thêm một thông tin cho cụm từ Cung điện Đan Dương là “Cung điện Đan Dương là sơn lăng phụng chứa bảo y tiên hoàng ta”.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho hay: Nhờ Ngô Thì Nhậm nên chúng ta biết được cung điện của vua Quang Trung tên là Đan Dương. Sau khi vua Quang Trung mất, được triều Quang Toản giữ bí mật táng vua ngay trong Cung điện. Từ đó Cung điện Đan Dương trở thành lăng Đan Dương hay Đan Lăng;
Ngoài bài thơ Cảm Hoài, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân trưng dẫn nhiều tác phẩm của Ngô Thời Nhậm có nhắc đến Đan lăng, như bài Khâm vãn Đan Dương Lăng (Kính viếng lăng Đan Dương); bài Sóc vọng thị tấu nhạc, Thái Tổ miếu, cung ký (Ngày lễ rằm, mồng một tấu nhạc miếu Thái Tổ, kính ghi); bài Tòng giá bái tảo Đan Lăng, cung ký (Theo xa giá đi bái tảo Đan Lăng, kính ghi).
Bên cạnh đó, sách Đại nam nhất thống chí và Phan Huy Ích viết Bùi Đắc Tuyên - Thái sư thời Quang Toản chiếm chùa Thiền Lâm ở, “nha thuộc” triều Quang Toản phải dọn đến ở chung quanh chùa. Chùa Thiền Lâm, theo nghiên cứu của Nguyễn Đắc Xuân trở thành cung đình đầu triều Quang Toản (1792-1795).
Phan Huy Ích từ Bắc vào ở trong một ngôi chùa dùng làm nhà trọ gần chùa Thiền Lâm để đêm đêm làm việc với Thái sư Bùi Đắc Tuyên.
Ban ngày Phan Huy Ích không ngủ được, ông bày rượu ra uống, “bọn Tiểu giám giữ lăng thường đến hầu rượu” Phan.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân nhận định: Lăng vua mới có Tiểu giám giữ, lăng vua phải ở gần chùa Thiền Lâm thì bọn Tiểu giám mới thường đến hầu rượu Phan Huy Ích được, bởi “Nhà của quan Thái sư (Bùi Đắc Tuyên) là chùa Thiền Lâm cũ, nằm phía Nam sông Hương.
Từ những chỉ dấu này, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân tiếp tục tìm hiểu về chùa Thiền Lâm, bởi theo ông, nếu tìm được chùa Thiền Lâm thì có thể tìm được phủ Dương Xuân đã mất tích.
Đại Nam Nhất Thống Chí soạn thời Tự Đức và sơ đồ các chùa Phật trong Hàm Long Sơn Chí của Điềm Tịnh Cư Sĩ ra đời từ cuối thế kỷ XIX xác định địa điểm tọa lạc của chùa Thiền Lâm gốc nằm trên đường Điện Biên Phủ hiện nay giữa một bên là Hậu Lộc Từ và một bên là nhà 145 Điện Biên Phủ thuộc ấp Bình An (Phường Trường An hiện nay) chứ không phải tại xã An Cựu như Đại Nam Nhất Thống Chí thời Duy Tân đã viết.
Do chùa Thiên Lâm gốc đã bị triệt hạ để làm Nam Giao Tân lộ (đường Điện Biên Phủ hiện nay) nên người ta đã tạo một ngôi chùa nhỏ trên khoảng đất phía Tây Nam chùa cũ (150 Điện Biên Phủ ngày nay) cũng lấy tên gọi là Thiền Lâm.
Chùa Thiền Lâm hiện nay trước kia chỉ là một cái am nhỏ không đề biển tên chùa, hằng ngày không dóng chuông. Những người giữ chùa phần lớn là các thầy tu bán thế có vợ có con, chùa được xem như một chùa tư.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho biết: Năm 1988, Tỳ kheo Chơn Trí từ chùa Tường Vân ra mua lại chùa Thiền Lâm của một vị thầy tu bán thế. Ông nầy có hàng chục người con.
Sau khi tiếp nhận, Tỳ kheo Chơn Trí cùng 6 đệ tử đào đất trồng rau màu thì phát hiện dưới lòng đất có hàng vạn viên gạch vồ, đá táng cột lớn, đá làm bậc cấp và chân bia, các tấm bia đều bị đục hết chữ hoặc mài nhẵn.
Bao giờ Long Thọ hết vôi
Thiền Lâm hết gạch mới thôi làm chùa!
Điều đó chứng tỏ ở đây có những kiến trúc bị đập phá, chôn sâu dưới đất.
“Tỳ-kheo Chơn Trí còn cho biết phía Bắc vườn chùa Thiền Lâm người ta đào móng xây nhà phát hiện nhiều hố chôn tập thể. Chứng tỏ đã có những cuộc giao chiến đẫm máu ở đây” - Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân lưu ý.
Sau khi có đầy đủ tư liệu về chùa Thiền Lâm, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân tập trung tìm hiểu về phủ Dương Xuân.
Đại Nam Nhất Thông Chí cho biết Phủ Dương Xuân trên gò Dương Xuân; phía nam gò Dương Xuân có đàn Nam Giao; nói cách khác phía bắc đàn Nam Giao có phủ Dương Xuân.
Hải Ngoại Kỷ Sự cho biết năm 1695 Thích Đại San được Nguyễn Phúc Chu tiếp ở Phủ Dương Xuân, quá nửa đêm chưa cho về. Đến khi về đến chùa Thiền Lâm trống canh ba vừa điểm (cũng là nửa đêm). Thời gian đi từ phủ Dương Xuân về chùa Thiền Lâm không bao lâu chứng tỏ phủ Dương Xuân tọa lạc gần chùa Thiền Lâm.
Tài liệu của phương Tây cũng cho biết vào năm 1749 Pierre Poivre – một nhà buôn Pháp đã đến phủ Dương Xuân gặp chúa Võ Vương. Ông cho biết phủ Dương Xuân được xây dựng trên một cái gò (élévation). Cánh phía Bắc nhìn về sông Hương, cánh phía Nam có chỗ cao chỗ thấp, ở cuối có một cái hồ (étang). Dùng bản đồ đi từ chùa Thiền Lâm, tìm một điểm cao (gò) gần chùa Thiền Lâm có đặc điểm như Pierre Poivre đã viết. Địa điểm đó là nơi tọa lạc chùa Vạn Phước ngày nay thuộc phường Trường An, Tp Huế. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí viết về chùa Tuệ Lâm và địa bạ thành lập năm 1907, tên mới của gò Dương Xuân từ đầu thế kỉ XIX đã được đổi thành gò ấp Bình An. Nghiên cứu tư liệu và thực địa, thấy trên gò ấp Bình An này có những biểu hiện không bình thường như sau:
Ở trên gò có nhiều kiến trúc đã bị đập phá chôn sâu dưới đất: Các đá táng cột trong chùa Vạn Phước, đá táng cột chôn sâu trên con đường từ chùa Vạn Phước xuống hồ sen bên suối Tiên, đá lát sàn nhà trong nhà ông Nguyễn Hữu Oánh. Chứng tỏ phủ Dương Xuân ở đây đã bị đập phá chôn vùi xuống đất.
Đại Nam Nhất Thống Chí viết: “Tự kinh binh loạn kim thất kỳ xứ”. Có nghĩa phủ Dương Xuân mất tích vì binh loạn Tây Sơn năm Bính Ngọ (1786).
Giải phóng Phú Xuân trong tay quân Trịnh, quân Tây Sơn chiếm tất cả những dinh thự cung điện ở Đô thành Phú Xuân, trong đó có phủ Dương Xuân. Mười bốn năm sau - trước cuộc tấn công của quân đội Nguyễn Ánh - quân Tây Sơn dưới triều Quang Toản/Cảnh Thịnh rút chạy khỏi Phú Xuân, chắc chắn quân đội của Quang Toản không kịp phá phủ Dương Xuân và chôn sâu xuống đất được. Thế thì ai làm cho phủ Dương Xuân bị xóa sổ để ngày nay không còn ai biết phủ Dương Xuân từng tọa lạc nơi nào? Người xóa sổ phủ Dương Xuân không ai khác là nhà Nguyễn. Vì sao nhà Nguyễn lại xóa sổ một công trình của Liệt thánh của mình? Vì phủ Dương Xuân đã bị quân Tây Sơn chiếm ở. Lực lượng nào của Tây Sơn đã ở phủ Dương Xuân?
Theo Đại Nam Thực Lục lăng mộ Quang Trung đã bị quật phá. Lăng mộ vua Quang Trung ở trong Cung điện Đan Dương tức là Cung điện Đan Dương ở gần chùa Thiền Lâm đã bị quật phá.
Nghiên cứu thơ văn cổ, văn học dân gian ở địa phương này, thực địa ấp Bình An còn thấy trên gò ấp Bình An (khu vực chùa Vạn Phước) và khu vực chung quanh gò suốt thế kỷ XIX cấm dân đến ở. Riêng dưới thời Minh Mạng, bà Ngọc Ngôn - con gái thứ 10 của vua Gia Long được đến trùng tu ngôi chùa có tên Tuệ/Huệ Lâm. Ngôi chùa này tồn tại cho đến năm 1949. Nhưng không ai biết chùa được xây dựng thời nào, do ai khai sơn.
Bãi tha ma trước chùa Vạn Phước xuôi xuống suối Tiên có tên là Cồn Bông Sứ. Vì trước năm 1988 còn nhiều gốc sứ cổ thụ. Chứng tỏ nơi đây từng là nơi thờ cúng hay lăng mộ của quan lại vua chúa.
Sau chùa Vạn Phước có một bãi tha ma với nhiều mồ mã vô danh từ xưa đến nay dân chúng gọi là “mã loạn”.
Trong vùng cấm địa ở chung quanh gò ấp Bình An (từ đầu thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX có nhiều giếng quy mô, sâu, nước trong sạch, bị bỏ hoang, dân chúng địa phương gọi là “giếng loạn”. Chứng tỏ trong khu vực nầy đã có nhiều người của nhà nước sinh sống. Ông Phủ doãn Thừa Thiên Phó bảng Nguyễn Đình Hiến, viết một tấm bia về một cái “Giếng loạn” với 2200 từ, ông đặt câu hỏi “Giếng nầy ai đào, đào từ khi nào, vì sao bỏ hoang?”
Trong văn học dân gian ở vùng nầy có câu: “Chiều chiều mây kéo về kinh/ Ếch kêu giếng loạn thảm tình đôi ta”.
Tùng Thiện Vương (hoàng tử thứ 10 của vua Minh Mạng nhà thơ nổi tiếng của Triều Nguyễn) viết cái gò ấp Bình An có Suối Tiến chảy ngang qua, ông viết là “Loạn sơn” (núi loạn).
Như vậy Phủ Dương Xuân và Cung điện Đan Dương theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân là một. Theo thời gian, phủ Dương Xuân thời các chúa Nguyễn là tiền thân của Cung điện Đan Dương thời Quang Trung. Nói cách khác vua Quang Trung đã sử dụng phủ Dương Xuân làm Cung điện Đan Dương. Do đó Cung điện Đan Dương bị quật phá hủy diệt hết dấu tích nên phủ Dương Xuân mất tích đúng như Đại nam nhất thống chí triều Nguyễn đã viết.
Với công trình của mình, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đã tìm được dấu tích vùng cung phủ Dương Xuân - Đan Dương trong khu vực gò ấp Bình An từ chùa Thiền Lâm qua đến chùa Vạn Phước ngày nay.
Tóm lại, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân: vào năm 1680, chúa Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687) cho xây dựng một cung phủ ở địa điểm kín gió, cao ráo ở trên gò Dương Xuân bên bờ nam sông Hương. Cung phủ được đặt tên là phủ Dương Xuân. Đến năm 1786, Nguyễn Huệ sau khi giải phóng Phú Xuân trong tay ba vạn quân Trịnh, ông đã chọn phủ Dương Xuân làm dinh phủ của mình. Cuối năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, phủ Dương Xuân được xây dựng lại và đặt tên là cung điện Đan Dương. Bốn năm sau vua Quang Trung ngã bệnh và mất vào ngày 29.7.1792. Để giữ kín sự kiện này với những lực lượng thù địch, triều Quang Toản / Cảnh Thịnh đã quyết định giữ bí mật ngày mất và táng vua Quang Trung ngay trong khuôn viên cung điện Đan Dương. Từ đó, cung điện Đan Dương trở thành lăng Đan Dương của vua Quang Trung.
Từ cuối năm 1801 đến cuối năm 1802, Nguyễn Ánh về lại Phú Xuân, ông cho quật phá lăng mộ vua Quang Trung và phá dỡ cung điện Đan Dương chôn sâu xuống đất. Suốt thế kỷ XIX, khu vực gò Dương Xuân được đổi thành gò ấp Bình An và cấm dân chúng đến ở. Đại Nam Nhất Thống Chí triều Nguyễn công bố “Tự kinh binh loạn kim thất kỳ xứ” (Từ sau khi bị binh hỏa đến nay, chỗ ấy mất tích không biết ở vào chỗ nào”.
Với công trình nghiên cứu của mình, qua tư liệu và thực địa khám phá, các hiện vật kiến trúc dân chúng phát hiện được trong hàng chục thập kỷ qua, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đã xác định được nơi tọa lạc của phủ Dương Xuân - tiền thân của cung điện Đan Dương trên gò Dương Xuân/gò ấp Bình An thuộc phường Trường An ngày nay.
Những dấu vết, hiện vật biểu hiện khảo cổ học vừa qua tại các hố thám sát theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho thấy giữa công trình nghiên cứu và biểu hiện khảo cổ học đã khớp nhau.
Tuy nhiên, phạm vi ranh giới Cung điện Đan Dương như thế nào, quần thể kiến trúc Cung điện có bao nhiêu nhà, các kiến trúc to nhỏ ra sao, dấu tích còn lại của lăng Đan Dương trong Cung điện Đan Dương chỗ nào… nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cậy nhờ ngành sử học và ngành khảo cổ học Việt Nam giải quyết để công trình nghiên cứu có giá trị lịch sử đạt được kết quả cuối cùng.
Phạm Hữu Thu
Kết thúc cuộc thăm dò khảo cổ ở gò Dương Xuân, phường Trường An- TP Huế do Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên - Huế và Viện Khảo cổ học thực hiện theo Quyết định của Bộ VH,TT&DL, chiều 15/10, Chủ trì cuộc thăm dò, PGS.TS Bùi Văn Liêm - Viện phó Viện Khảo cổ học cho biết, sau khi đào đến tầng đất sinh thổ tại 5 hố thăm dò, đoàn đã tìm thấy một số hiện vật bằng đất, đá, gạch, ngói, vữa, gốm, sứ, sành, kim loại... liên quan đến các hoạt động của con người ở các giai đoạn lịch sử khác nhau; các thông tin về địa tầng, di tích và các đặc điểm khác...
Đáng chú ý nhất là đã phát hiện tại hố số 5 (ở khu sân nhà 13/120 đường Điện Biên Phủ và nhà bên cạnh) có một nền đá gồm nhiều phiến đá chồng lên nhau, bên trên có vữa và đất đắp hình dạng như một bức tường thành rộng tới 5,5m; chiều dài vẫn còn phát triển. Toàn bộ hiện vật phát hiện trong quá trình thăm dò khảo sát tại gò Dương Xuân sẽ được đưa về Bảo tàng lịch sử Thừa Thiên Huế bảo quản, lau chùi và sắp xếp trước khi chuyên gia đánh giá, ba tháng sau sẽ công bố kết quả trước khi hoàn thiện hồ sơ để báo cáo Bộ VH,TT&DL. Riêng những hiện vật thu được trên bề mặt đất, Bảo tàng lịch sử Thừa Thiên Huế sẽ phối hợp với nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân tổ chức trưng bày để người dân và du khách thưởng lãm. |
HÀ MINH ĐỨC Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.
BĂNG SƠN Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.
PHAN THUẬN THẢO Chiều chiều trước bến Vân Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông. Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non. (Ưng Bình Thúc Giạ)
LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!
BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm
MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.
VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.
HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.
MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.
VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.
NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.
TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.
TÔN NỮ KHÁNH TRANG Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.
TRƯƠNG THỊ CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.
NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.
BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.
NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.
PHAN THUẬN AN Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương. (Bùi Giáng)
NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.