Cung điện Đan Dương & tâm huyết của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân

15:38 17/10/2016

Được sự cho phép của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, từ ngày 7/10/2016, Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên Huế đã phối hợp với Viện Khảo cổ học mở hố thám sát thăm dò dấu vết lăng mộ vua Quang Trung tại gò Dương Xuân (Trường An, TP Huế) với diện tích 22 m2.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân

Mặc dù đã ở cái tuổi 80 nhưng từ khi các hố thám sát được mở cho đến khi kết thúc (7-15/10/2016), hầu như ngày nào nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cũng xuất hiện ở khu vực chùa Thuyền Lâm, chùa Vạn Phước… thuộc phủ Dương Xuân xưa.

Ông cho biết: Tôi rất vui bởi dấu vết, hiện vật xuất hiện trong 5 hố thám sát đều có dấu hiệu một quần thể kiến trúc với đời sống cao cấp khớp với chứng minh của mình trong quá trình nghiên cứu công trình: Đi tìm dấu tích Cung điện Đan Dương-sơn lăng của Hoàng đế Quang Trung.

Mở đầu cho hành trình 30 năm Đi tìm dấu tích Cung điện Đan Dương, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đã nhắc lại chuyện sau năm 1975, Thủ tướng Phạm Văn Đồng vào thăm Huế nói với trí thức Huế rằng: “Sau ngày thống nhất đất nước may ra còn có Huế để đối ngoại về văn hóa”.

Câu nói đó cho thấy một điều: Di sản văn hóa Huế đóng một vai trò rất quan trọng đối với đất nước..

Tâm đắc với điều này, từ đó cho đến nay nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đã bỏ công sưu tập tư liệu, nghiên cứu về văn hóa Huế. Trong hơn 60 đầu sách đã được xuất bản, có hai công trình mà ông dày công hơn cả, đó là Đi tìm dấu tích thời niên thiếu Bác Hồ ở Huế (NXB Văn học 2003) và Đi tìm dấu tích Cung điện Đan Dương – sơn lăng của Hoàng đế Quang Trung (NXB Thuận Hóa 2007, tái bản năm 2015).

Đối với công trình Đi tìm dấu tích Cung điện Đan Dương – sơn lăng của Hoàng đế Quang Trung, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho biết: Do lăng mộ vua Quang Trung đã bị triều Nguyễn “tận pháp trừng trị” và cấm thần dân nhắc đến, vì thế những nhà nghiên cứu tiền bối hoạt động thời Nguyễn không dám đả động đến lăng mộ vua Quang Trung. Nếu vô tình gặp phải thì tránh, thậm chí có người còn làm nhiễu thông tin, đánh lạc hướng đi nữa.

Để giải mã "bí ẩn lịch sử" này sau khi đọc lại những lời chú, lời dẫn trong thơ văn của các trọng thần thời Quang Trung là Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đã đề ra cho mình hướng nghiên cứu mới.

Trong bài thơ “Cảm Hoài” Ngô Thì Nhậm sáng tác năm 1792 khi được cử sang Trung Quốc báo tang vua Quang Trung và cầu phong cho vua Cảnh Thịnh, ở câu 8 đã viết: Đan Dương cung điện nhật tam thu (trông về Cung điện Đan Dương một ngày coi bằng ba thu), tác giả đã chú thêm một thông tin cho cụm từ Cung điện Đan Dương là “Cung điện Đan Dương là sơn lăng phụng chứa bảo y tiên hoàng ta”.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho hay: Nhờ Ngô Thì Nhậm nên chúng ta biết được cung điện của vua Quang Trung tên là Đan Dương. Sau khi vua Quang Trung mất, được triều Quang Toản giữ bí mật táng vua ngay trong Cung điện. Từ đó Cung điện Đan Dương trở thành lăng Đan Dương hay Đan Lăng;

Ngoài bài thơ Cảm Hoài, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân trưng dẫn nhiều tác phẩm của Ngô Thời Nhậm có nhắc đến Đan lăng, như bài Khâm vãn Đan Dương Lăng (Kính viếng lăng Đan Dương); bài Sóc vọng thị tấu nhạc, Thái Tổ miếu, cung ký (Ngày lễ rằm, mồng một tấu nhạc miếu Thái Tổ, kính ghi); bài Tòng giá bái tảo Đan Lăng, cung ký (Theo xa giá đi bái tảo Đan Lăng, kính ghi).

Bên cạnh đó, sách Đại nam nhất thống chí và Phan Huy Ích viết Bùi Đắc Tuyên - Thái sư thời Quang Toản chiếm chùa Thiền Lâm ở, “nha thuộc” triều Quang Toản phải dọn đến ở chung quanh chùa. Chùa Thiền Lâm, theo nghiên cứu của Nguyễn Đắc Xuân trở thành cung đình đầu triều Quang Toản (1792-1795).

Phan Huy Ích từ Bắc vào ở trong một ngôi chùa dùng làm nhà trọ gần chùa Thiền Lâm để đêm đêm làm việc với Thái sư Bùi Đắc Tuyên.

Ban ngày Phan Huy Ích không ngủ được, ông bày rượu ra uống, “bọn Tiểu giám giữ lăng thường đến hầu rượu” Phan.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân nhận định: Lăng vua mới có Tiểu giám giữ, lăng vua phải ở gần chùa Thiền Lâm thì bọn Tiểu giám mới thường đến hầu rượu Phan Huy Ích được, bởi “Nhà của quan Thái sư (Bùi Đắc Tuyên) là chùa Thiền Lâm cũ, nằm phía Nam sông Hương.

Từ những chỉ dấu này, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân tiếp tục tìm hiểu về chùa Thiền Lâm, bởi theo ông, nếu tìm được chùa Thiền Lâm thì có thể tìm được phủ Dương Xuân đã mất tích.

Đại Nam Nhất Thống Chí soạn thời Tự Đức và sơ đồ các chùa Phật trong Hàm Long Sơn Chí của Điềm Tịnh Cư Sĩ ra đời từ cuối thế kỷ XIX xác định địa điểm tọa lạc của chùa Thiền Lâm gốc nằm trên đường Điện Biên Phủ hiện nay giữa một bên là Hậu Lộc Từ và một bên là nhà 145 Điện Biên Phủ thuộc ấp Bình An (Phường Trường An hiện nay) chứ không phải tại xã An Cựu như Đại Nam Nhất Thống Chí thời Duy Tân đã viết.

Do chùa Thiên Lâm gốc đã bị triệt hạ để làm Nam Giao Tân lộ (đường Điện Biên Phủ hiện nay) nên người ta đã tạo một ngôi chùa nhỏ trên khoảng đất phía Tây Nam chùa cũ (150 Điện Biên Phủ ngày nay) cũng lấy tên gọi là Thiền Lâm.

Chùa Thiền Lâm hiện nay trước kia chỉ là một cái am nhỏ không đề biển tên chùa, hằng ngày không dóng chuông. Những người giữ chùa phần lớn là các thầy tu bán thế có vợ có con, chùa được xem như một chùa tư.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho biết: Năm 1988, Tỳ kheo Chơn Trí từ chùa Tường Vân ra mua lại chùa Thiền Lâm của một vị thầy tu bán thế. Ông nầy có hàng chục người con.

Sau khi tiếp nhận, Tỳ kheo Chơn Trí cùng 6 đệ tử đào đất trồng rau màu thì phát hiện dưới lòng đất có hàng vạn viên gạch vồ, đá táng cột lớn, đá làm bậc cấp và chân bia, các tấm bia đều bị đục hết chữ hoặc mài nhẵn.

Bao giờ Long Thọ hết vôi
Thiền Lâm hết gạch mới thôi làm chùa!


Điều đó chứng tỏ ở đây có những kiến trúc bị đập phá, chôn sâu dưới đất.

“Tỳ-kheo Chơn Trí còn cho biết phía Bắc vườn chùa Thiền Lâm người ta đào móng xây nhà phát hiện nhiều hố chôn tập thể. Chứng tỏ đã có những cuộc giao chiến đẫm máu ở đây” - Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân lưu ý.

Sau khi có đầy đủ tư liệu về chùa Thiền Lâm, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân tập trung tìm hiểu về phủ Dương Xuân.

Đại Nam Nhất Thông Chí cho biết Phủ Dương Xuân trên gò Dương Xuân; phía nam gò Dương Xuân có đàn Nam Giao; nói cách khác phía bắc đàn Nam Giao có phủ Dương Xuân.

Hải Ngoại Kỷ Sự cho biết năm 1695 Thích Đại San được Nguyễn Phúc Chu tiếp ở Phủ Dương Xuân, quá nửa đêm chưa cho về. Đến khi về đến chùa Thiền Lâm trống canh ba vừa điểm (cũng là nửa đêm). Thời gian đi từ phủ Dương Xuân về chùa Thiền Lâm không bao lâu chứng tỏ phủ Dương Xuân tọa lạc gần chùa Thiền Lâm.

Tài liệu của phương Tây cũng cho biết vào năm 1749 Pierre Poivre – một nhà buôn Pháp đã đến phủ Dương Xuân gặp chúa Võ Vương. Ông cho biết phủ Dương Xuân được xây dựng trên một cái gò (élévation). Cánh phía Bắc nhìn về sông Hương, cánh phía Nam có chỗ cao chỗ thấp, ở cuối có một cái hồ (étang). Dùng bản đồ đi từ chùa Thiền Lâm, tìm một điểm cao (gò) gần chùa Thiền Lâm có đặc điểm như Pierre Poivre đã viết. Địa điểm đó là nơi tọa lạc chùa Vạn Phước ngày nay thuộc phường Trường An, Tp Huế. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí viết về chùa Tuệ Lâm và địa bạ thành lập năm 1907, tên mới của gò Dương Xuân từ đầu thế kỉ XIX đã được đổi thành gò ấp Bình An. Nghiên cứu tư liệu và thực địa, thấy trên gò ấp Bình An này có những biểu hiện không bình thường như sau:

Ở trên gò có nhiều kiến trúc đã bị đập phá chôn sâu dưới đất: Các đá táng cột trong chùa Vạn Phước, đá táng cột chôn sâu trên con đường từ chùa Vạn Phước xuống hồ sen bên suối Tiên, đá lát sàn nhà trong nhà ông Nguyễn Hữu Oánh. Chứng tỏ phủ Dương Xuân ở đây đã bị đập phá chôn vùi xuống đất.

Đại Nam Nhất Thống Chí viết: “Tự kinh binh loạn kim thất kỳ xứ”. Có nghĩa phủ Dương Xuân mất tích vì binh loạn Tây Sơn năm Bính Ngọ (1786).

Giải phóng Phú Xuân trong tay quân Trịnh, quân Tây Sơn chiếm tất cả những dinh thự cung điện ở Đô thành Phú Xuân, trong đó có phủ Dương Xuân. Mười bốn năm sau - trước cuộc tấn công của quân đội Nguyễn Ánh - quân Tây Sơn dưới triều Quang Toản/Cảnh Thịnh rút chạy khỏi Phú Xuân, chắc chắn quân đội của Quang Toản không kịp phá phủ Dương Xuân và chôn sâu xuống đất được. Thế thì ai làm cho phủ Dương Xuân bị xóa sổ để ngày nay không còn ai biết phủ Dương Xuân từng tọa lạc nơi nào? Người xóa sổ phủ Dương Xuân không ai khác là nhà Nguyễn. Vì sao nhà Nguyễn lại xóa sổ một công trình của Liệt thánh của mình? Vì phủ Dương Xuân đã bị quân Tây Sơn chiếm ở. Lực lượng nào của Tây Sơn đã ở phủ Dương Xuân?

Theo Đại Nam Thực Lục lăng mộ Quang Trung đã bị quật phá. Lăng mộ vua Quang Trung ở trong Cung điện Đan Dương tức là Cung điện Đan Dương ở gần chùa Thiền Lâm đã bị quật phá.

Nghiên cứu thơ văn cổ, văn học dân gian ở địa phương này, thực địa ấp Bình An còn thấy trên gò ấp Bình An (khu vực chùa Vạn Phước) và khu vực chung quanh gò suốt thế kỷ XIX cấm dân đến ở. Riêng dưới thời Minh Mạng, bà Ngọc Ngôn - con gái thứ 10 của vua Gia Long được đến trùng tu ngôi chùa có tên Tuệ/Huệ Lâm. Ngôi chùa này tồn tại cho đến năm 1949. Nhưng không ai biết chùa được xây dựng thời nào, do ai khai sơn.

Bãi tha ma trước chùa Vạn Phước xuôi xuống suối Tiên có tên là Cồn Bông Sứ. Vì trước năm 1988 còn nhiều gốc sứ cổ thụ. Chứng tỏ nơi đây từng là nơi thờ cúng hay lăng mộ của quan lại vua chúa.

Sau chùa Vạn Phước có một bãi tha ma với nhiều mồ mã vô danh từ xưa đến nay dân chúng gọi là “mã loạn”.

Trong vùng cấm địa ở chung quanh gò ấp Bình An (từ đầu thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX có nhiều giếng quy mô, sâu, nước trong sạch, bị bỏ hoang, dân chúng địa phương gọi là “giếng loạn”. Chứng tỏ trong khu vực nầy đã có nhiều người của nhà nước sinh sống. Ông Phủ doãn Thừa Thiên Phó bảng Nguyễn Đình Hiến, viết một tấm bia về một cái “Giếng loạn” với 2200 từ, ông đặt câu hỏi “Giếng nầy ai đào, đào từ khi nào, vì sao bỏ hoang?”

Trong văn học dân gian ở vùng nầy có câu: “Chiều chiều mây kéo về kinh/ Ếch kêu giếng loạn thảm tình đôi ta”.

Tùng Thiện Vương (hoàng tử thứ 10 của vua Minh Mạng nhà thơ nổi tiếng của Triều Nguyễn) viết cái gò ấp Bình An có Suối Tiến chảy ngang qua, ông viết là “Loạn sơn” (núi loạn).

Như vậy Phủ Dương Xuân và Cung điện Đan Dương theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân là một. Theo thời gian, phủ Dương Xuân thời các chúa Nguyễn là tiền thân của Cung điện Đan Dương thời Quang Trung. Nói cách khác vua Quang Trung đã sử dụng phủ Dương Xuân làm Cung điện Đan Dương. Do đó Cung điện Đan Dương bị quật phá hủy diệt hết dấu tích nên phủ Dương Xuân mất tích đúng như Đại nam nhất thống chí triều Nguyễn đã viết.

Với công trình của mình, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đã tìm được dấu tích vùng cung phủ Dương Xuân - Đan Dương trong khu vực gò ấp Bình An từ chùa Thiền Lâm qua đến chùa Vạn Phước ngày nay.

Tóm lại, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân: vào năm 1680, chúa Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687) cho xây dựng một cung phủ ở địa điểm kín gió, cao ráo ở trên gò Dương Xuân bên bờ nam sông Hương. Cung phủ được đặt tên là phủ Dương Xuân. Đến năm 1786, Nguyễn Huệ sau khi giải phóng Phú Xuân trong tay ba vạn quân Trịnh, ông đã chọn phủ Dương Xuân làm dinh phủ của mình. Cuối năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, phủ Dương Xuân được xây dựng lại và đặt tên là cung điện Đan Dương. Bốn năm sau vua Quang Trung ngã bệnh và mất vào ngày 29.7.1792. Để giữ kín sự kiện này với những lực lượng thù địch, triều Quang Toản / Cảnh Thịnh đã quyết định giữ bí mật ngày mất và táng vua Quang Trung ngay trong khuôn viên cung điện Đan Dương. Từ đó, cung điện Đan Dương trở thành lăng Đan Dương của vua Quang Trung. 

Từ cuối năm 1801 đến cuối năm 1802, Nguyễn Ánh về lại Phú Xuân, ông cho quật phá lăng mộ vua Quang Trung và phá dỡ cung điện Đan Dương chôn sâu xuống đất. Suốt thế kỷ XIX, khu vực gò Dương Xuân được đổi thành gò ấp Bình An và cấm dân chúng đến ở. Đại Nam Nhất Thống Chí triều Nguyễn công bố “Tự kinh binh loạn kim thất kỳ xứ” (Từ sau khi bị binh hỏa đến nay, chỗ ấy mất tích không biết ở vào chỗ nào”.

Với công trình nghiên cứu của mình, qua tư liệu và thực địa khám phá, các hiện vật kiến trúc dân chúng phát hiện được trong hàng chục thập kỷ qua, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đã xác định được nơi tọa lạc của phủ Dương Xuân - tiền thân của cung điện Đan Dương trên gò Dương Xuân/gò ấp Bình An thuộc phường Trường An ngày nay.

Những dấu vết, hiện vật biểu hiện khảo cổ học vừa qua tại các hố thám sát theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho thấy giữa công trình nghiên cứu và biểu hiện khảo cổ học đã khớp nhau.

Tuy nhiên, phạm vi ranh giới Cung điện Đan Dương như thế nào, quần thể kiến trúc Cung điện có bao nhiêu nhà, các kiến trúc to nhỏ ra sao, dấu tích còn lại của lăng Đan Dương trong Cung điện Đan Dương chỗ nào… nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cậy nhờ ngành sử học và ngành khảo cổ học Việt Nam giải quyết để công trình nghiên cứu có giá trị lịch sử đạt được kết quả cuối cùng.  

Phạm Hữu Thu
 

Kết thúc cuộc thăm dò khảo cổ ở gò Dương Xuân, phường Trường An- TP Huế do Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên - Huế và Viện Khảo cổ học thực hiện theo Quyết định của Bộ VH,TT&DL, chiều 15/10, Chủ trì cuộc thăm dò, PGS.TS Bùi Văn Liêm - Viện phó Viện Khảo cổ học cho biết, sau khi đào đến tầng đất sinh thổ tại 5 hố thăm dò, đoàn đã tìm thấy một số hiện vật bằng đất, đá, gạch, ngói, vữa, gốm, sứ, sành, kim loại... liên quan đến các hoạt động của con người ở các giai đoạn lịch sử khác nhau; các thông tin về địa tầng, di tích và các đặc điểm khác...
Phát hiện bức tường rộng tới 5,5m tại hố số 5 thuộc khuôn viên ngôi nhà 13/120 đường Điện Biên Phủ-Huế.

Đáng chú ý nhất là đã phát hiện tại hố số 5 (ở khu sân nhà 13/120 đường Điện Biên Phủ và nhà bên cạnh) có một nền đá gồm nhiều phiến đá chồng lên nhau, bên trên có vữa và đất đắp hình dạng như một bức tường thành rộng tới 5,5m; chiều dài vẫn còn phát triển.

Toàn bộ hiện vật phát hiện trong quá trình thăm dò khảo sát tại gò Dương Xuân sẽ được đưa về Bảo tàng lịch sử Thừa Thiên Huế bảo quản, lau chùi và sắp xếp trước khi chuyên gia đánh giá, ba tháng sau sẽ công bố kết quả trước khi hoàn thiện hồ sơ để báo cáo Bộ VH,TT&DL.

Riêng những hiện vật thu được trên bề mặt đất, Bảo tàng lịch sử Thừa Thiên Huế sẽ phối hợp với nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân tổ chức trưng bày để người dân và du khách thưởng lãm.




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)

  • NGUYỄN QUANG HÀ                            Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".

  • XUÂN HUY        "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại        Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"

  • TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.

  • LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.

  • HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.

  • THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.

  • QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.

  • ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét:        Rõ ràng trong ngọc trắng ngà        Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên                                                        (Nguyễn Du)

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.

  • VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.

  • NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).

  • NGUYỄN QUANG SÁNG                                 Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.

  • TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…

  • HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.

  • NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...

  • NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!