Cố đô Huế, nơi cuối cùng còn bảo lưu được nghệ thuật cung đình Việt Nam

10:27 19/03/2019

PHAN THUẬN AN

Nghệ thuật cung đình là những loại hình nghệ thuật gắn bó thiết thân với sinh hoạt tinh thần và vật chất của giới cầm quyền tại kinh đô dưới các triều đại quân chủ ngày xưa.

Múa Ba Vũ, nghệ thuật cung đình Huế - Ảnh: Ngô Văn Duệ

So với nghệ thuật dân gian của giai cấp bị trị thì nghệ thuật cung đình chiếm phần ưu thế, ít nhất là về phẩm chất, vì đó là sản phẩm hưởng thụ của tầng lớp cai trị ở trong thế thượng phong.

Nếu toàn bộ các sản phẩm thuộc mọi loại hình nghệ thuật cung đình Việt Nam ngày xưa đều được bảo tồn trọn vẹn cho đến ngày nay thì chúng ta còn được một khối lượng di sản văn hóa nghệ thuật đồ sộ và giá trị biết bao! Thật đáng tiếc là tuy đã có nhiều, nhưng vì các lý do khác nhau, nay chẳng còn được bao nhiêu.

Chỉ cần điểm lại con số các kinh đô đã xây dựng và con số cố đô hiếm hoi còn lại tại Việt Nam thì đủ thấy, vì nơi mà nghệ thuật cung đình để lại dấu ấn rõ nhất là tại các cố đô.

Chưa kể đến các triều đại xa xưa trong lịch sử, chỉ tính thời gian trong 1.000 năm nay từ thời Đinh đến các thời Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, Tây Sơn, kinh đô của các triều đại ấy đều đã điêu tàn, mai một. Thành kinh đô xưa nhất là Cổ Loa đắp bằng đất, nay đã tan hoang. Thành Mê Linh và thành Đại La không được rõ nét. Cố đô Hoa Lư chỉ có dấu vết mấy vòng thành. Thăng Long, rồi Đông Đô chẳng có gì đáng kể. Thành Hoàng Đế của Tây Sơn tại Qui Nhơn cũng đã bị làm cho biến tướng. Chẳng những các tư liệu vật chất để lại đã hiếm, mà những tư liệu thành văn về nghệ thuật cung đình cũng chẳng còn lại được gì đáng kể. Nay nhìn lại, chúng ta thấy chỉ còn kinh đô nhà Nguyễn ở Huế là tương đối nguyên vẹn. May mà còn có nó để thấy được một phần nào diện mạo chung của thời đại quân chủ kéo dài mấy ngàn năm, và nhất là thấy được một cách cụ thể nghệ thuật cung đình của giai đoạn cuối cùng thuộc thời đại ấy.

Lý do tồn tại của nghệ thuật cung đình Huế rất đơn giản: triều Nguyễn chỉ mới chấm dứt cách đây chưa đầy nửa thế kỷ (1945).

Dù đã bị thiên nhiên và nhất là chiến tranh tàn phá đi một phần, nhưng nhìn chung, Huế còn bảo lưu được khá nhiều loại hình nghệ thuật cung đình quí báu của dân tộc một thời.

Riêng hệ thống các công trình kiến trúc tạo ra bộ mặt kinh đô triều Nguyễn đã là một chỉnh thể các tác phẩm nghệ thuật cung đình có giá trị cao, bao gồm thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền miếu, phủ đệ các ông hoàng bà chúa...

Sông Hương và núi Ngự Bình là hai yếu tố địa lý tự nhiên mang tính quyết định trong việc qui hoạch và thiết lập hệ thống kiến trúc cung đình ấy.

Ở bờ bắc sông Hương, Kinh Thành với diện tích rộng hơn 500 ha và chu vi gần 10 km được xây dựng theo kiểu Vauban (Pháp), là một pháo đài vĩ đại và kiên cố dùng để bảo vệ cho các cơ quan hành chính trung ương của triều đình, như Lục Bộ, Viện Cơ mật, trường Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Khâm Thiên Giám, Viện Đô Sát, lầu Tàng Thơ...

Bên trong Kinh Thành còn có Đại Nội, gồm Hoàng Thành và Tử Cấm Thành, với hơn 100 công trình kiến trúc lớn nhỏ, trong đó có hàng chục tòa cung điện lộng lẫy vàng son, dành cho vua cùng đình thần làm việc và hoàng gia ăn ở.

Phủ đệ các ông hoàng bà chúa và dinh thự của các quan lại cũng như nhà cửa của các thế gia vọng tộc thì ở tại các xóm phường nằm gần ngoài Thành Nội, như Gia Hội, Vĩ Dạ, Kim Long...

Xa xa về phía nam sông Hương là 7 khu lăng tẩm của các vua nhà Nguyễn. Lăng tẩm các vua là những đóa hoa nghệ thuật đầy hương sắc nở ra giữa chốn núi đồi tĩnh mịch. Mỗi lăng tẩm là một cõi thiên đường mà chủ nhân của nó đã tạo ra khi còn tại vị, để khi chết trở thành nơi sống vĩnh hằng ở bên kia thế giới. Dù là chôn mộ địa, nhưng nhờ mang nghệ thuật kiến trúc đặc biệt, cho nên lăng tẩm Huế vẫn âm vang cuộc sống, ríu rít tính đời. Đây quả thật là chỗ "ngậm cười nơi chín suối" của các đấng quân vương. Chính nhờ vẻ đẹp mỹ miều đầy chất triết lý ấy mà lăng tẩm Huế đã được đánh giá là một thành tựu rực rỡ nhất trong nền kiến trúc cổ của nước ta và được xếp vào hàng kỳ quan của thế giới. Chủ đề tư tưởng thì giống nhau, nhưng biểu hiện nghệ thuật ở mỗi lăng tẩm lại mang cá tính, phong cách riêng của từng ông vua lúc sinh thời.

Nằm xen kẽ giữa các khu vực kiến trúc nghệ thuật ấy, và rải rác đó đây là đàn Nam Giao (nơi vua tế trời đất), đàn Xã Tắc (nơi vua tế thần lúa), Văn Miếu, Võ Miếu (nơi thờ các vị thánh hiền và các nhà quân sự tài ba, tại đây hiện còn hơn 30 tấm bia tiến sĩ), Hổ Quyền (chỗ voi và cọp đấu nhau cho vua xem), thành Trấn Hải (giữ cửa biển Thuận An).v.v...

Mãi đến ngày nay, Huế vẫn là thành phố của nhà vườn với biết bao ngôi nhà cổ kính và hàng chục mái chùa xưa - một cái gạch nối giữa kiến trúc cung đình và kiến trúc dân gian - tọa lạc giữa những xóm phường yên ả hay khiêm tốn ẩn mình giữa vùng gò đồi hoặc các thôn làng ven thành phố. Tính triết lý của đạo Phật và nhân sinh quan của phương Đông đã thể hiện rõ trên từng tác phẩm kiến trúc tạo cảnh đầy trí tuệ của các nhà sư và các gia chủ.

Song song với hệ thống kiến trúc ấy, Huế còn bảo lưu được nhiều loại hình nghệ thuật cung đình khác: hàng ngàn tác phẩm điêu khắc, hội họa, trang trí, đồ thủ công mỹ nghệ.

Ở nội ngoại thất các tòa cung điện huy hoàng tráng lệ trong phạm vi Kinh Thành, Đại Nội hay tại các lăng tẩm, người xưa đã trang trí, trang hoàng rất nhiều tác phẩm nghệ thuật được chạm trổ tỷ mỷ công phu, sơn son thếp vàng lộng lẫy...

Các tác phẩm cung đình ấy được chế tác bằng đủ loại chất liệu: gỗ, đá, đồng, vàng, bạc, pháp lam, đất nung, vải, mây tre, sành sứ v.v...

Ngoài ra, Huế cũng còn bảo lưu được một nền nghệ thuật múa hát và ca nhạc cung đình rất phong phú. Các nghệ nhân trong Đoàn Múa Hát Cung Đình Huế hiện nay có thể biểu diễn hàng chục điệu múa, bài ca, bản nhạc, vở tuồng đã từng diễn ra trong các đền miếu ngày xưa. Ngay trong lăng Tự Đức hiện nay cũng còn duy trì được một nhà hát độc đáo (Minh Khiêm Đường) mang đầy tính nghệ thuật.

Người ta cũng có thể tìm thấy và thưởng thức một số các di sản khác thuộc nghệ thuật cung đình, như các món ăn "thượng thiện" dành cho vua chúa, lối sống của hoàng tộc, của con cháu các đại thần, kiểu cách phục sức, nói năng, giao tiếp thời xưa.

Nhìn chung, nghệ thuật cung đình thời Nguyễn đã chịu ảnh hưởng ít nhiều của nghệ thuật Trung Hoa và nghệ thuật phương Tây, thậm chí của nghệ thuật Cham-pa nữa, nhưng sự tiếp thu tương đối có chừng mực, biết gạn đục khơi trong cho thích hợp với phong thổ và con người miền sông Hương núi Ngự. Và tất nhiên, nghệ thuật cung đình Nguyễn, đại diện cho nghệ thuật cả nước trong gần một thế kỷ rưỡi (1802 -1945), cũng đã chịu ảnh hưởng không ít của nền nghệ thuật cổ truyền từ các triều đại trước nó. Có thể nói Huế là nơi đọng lại những giá trị thẩm mỹ của nghệ thuật truyền thống Việt Nam.

Cách đây 60 năm, trong bài viết nhan đề "Richesses touristiques !" (sự phong phú về du lịch) đăng trên một tập sách giới thiệu về các tỉnh Trung Kỳ, ở đoạn đề cập đến Huế, một tác giả phương Tây là A.Sallet đã nói :

"Đi du lịch ở Trung Kỳ, Huế là nơi đáng dừng lại lâu nhất. Là kinh đô, Huế tập trung rất nhiều thứ của vua chúa để lại, các gia đình xưa, những truyền thống đều được bảo tồn"(L’Annam, I.D.E.O, Hà Nội, 1931, trang 53). Bấy giờ, tập sách "Hué, Ville Impériale" cũng đã viết rằng : "Huế không giống bất cứ một kinh đô nào khác ở Đông Dương : Hà Nội, Sài Gòn, Phnom Penh và ngay cả Vientiane nữa, đều là những thành phố phần lớn đã hiện đại hóa, xây dựng theo những quan niệm của người Âu. May mắn thay, Huế còn bảo lưu được tính địa phương của nó ... Thành phố còn giữ lại được rất tốt cái kinh đô tinh thần và chính trị mà vị trí của nó đã được lựa chọn theo những lý do thần bí, và phương hướng của nó đã dóng theo những chỉ dẫn của các nhà phong thủy, hai hòn đảo Thanh Long và Bạch Hổ chầu về giữa dòng sông thiêng liêng" (I.D.E.O., Hà Nội, 1931, trang 2).

Năm 1978, sau khi đi khảo sát những công trình kiến trúc nghệ thuật cổ xưa ở các cố đô trong vùng Đông Nam châu Á, như Pagan(Miến Điện), Soukhothai, Bangkok (Thái Lan), Angkor (Cambodge)..., một chuyên gia của UNESCO là kiến trúc sư Pierre Pichard đã viết rằng Huế là cố đô duy nhất trong vùng còn bảo lưu được hầu như nguyên vẹn kiến trúc và thiên nhiên của nó; còn các cố đô kia thì hoặc bị bỏ phế trong rừng sâu cho thiên nhiên tàn phá, hoặc bị biến thái do sự phát triển bừa bãi của các công trình kiến trúc hiện đại (International co-operation to preserve Hué, World Cultural Heritage Bulletin, số 12, tháng 10-1978, Paris, trang 19).

Nhìn chung, trong kiến trúc, trong điêu khắc, hội họa, trang trí, trong đồ cổ cũng như trong sinh hoạt của con người đang sống tại chỗ hiện nay, Huế là cả một kho báu rất lớn về nghệ thuật cung đình. Nó là "tập đại thành" của cả ngàn năm lịch sử dân tộc trải qua các thời Đinh, Lý, Trần, Lê...

Vào năm 1981, ông Tổng Giám Đốc UNESCO, ông A.M.M’BOW đã cho rằng "Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hóa sôi động (Trích lời kêu gọi cứu vãn Huế). Cho nên, Huế được xem chẳng những là một di sản văn hóa quốc gia, mà còn là một bộ phận hợp thành của di sản văn hóa quốc tế.

Giá trị của nghệ thuật cung đình Huế là như thế. Giá trị đó trở nên cao hơn khi Huế là cố đô duy nhất còn lại trên đất nước ta. Nếu không còn Huế thì biết tìm đâu để thấy được một cách cụ thể nghệ thuật cung đình của người Việt Nam ?

Một vấn đề cần đặt ra là chúng ta phải bảo tồn tổng thể di sản nghệ thuật cung đình còn một không hai này như thế nào để nó khỏi bị mai một như số phận hẩm hiu của những cố đô trước thế kỷ XIX. ,

P.T.A
(TCSH46/04-1991)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHAN THUẬN ANNgọ Môn năm cửa chín lầu,Cột cờ ba cấp, Phu Văn Lâu hai tầng.

  • LÊ MINH PHONGDọc theo đôi bờ Sông Hương, nơi có những công viên quyến rũ là điểm trưng bày của một số công trình nghệ thuật.

  • NHỤY NGUYÊN(Xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc trung ương)

  • LÊ PHÙNGSau nhiều ngày cùng nhau trăn trở - nghĩ suy - hiệp lực - hiệp tâm của những anh, chị em nhạc sĩ ở Huế, Nhạc Quán đã chính thức trình làng với công chúng yêu thích âm nhạc tại Huế vào lúc 20h, ngày chủ nhật (02/01/2011) là ngày Đinh Tỵ (nguyệt đức hợp, tế tự, đính hôn) trong tiết trời vào xuân của Huế, có sáng nắng chiều mưa, có gió về đêm, có lòng người ấm áp, có không gian lãng mạn, trữ tình.

  • HỒ VĨNHMới đây trong quá trình sưu tầm tư liệu Hán Nôm tại Cố đô Huế, chúng tôi tìm thấy được một văn bản có liên quan đến Phường Đúc Huế.

  • TƯỜNG THITôi trở lại Hương Trà bằng ký ức của hơn 20 năm trước, trên con đường đất băng qua những vườn thanh trà trĩu quả ven con sông Bồ thơ mộng để đến làng Lại Bằng, xã Hương Vân. Một xã tiếp giáp núi và đồng bằng, nơi đã ghi lại dấu ấn lịch chống giặc ngoại xâm của Thừa Thiên Huế - địa đạo Khe Trái.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTrong những năm gần đây, Huế đã được các nhà đông phương học và khách du lịch trong nước và ngoài nước lưu ý.

  • MAI KHẮC ỨNGLăng Minh Mạng nằm dưới chân núi Cẩm Kê thuộc thôn La Khê làng An Bằng huyện Hương Trà cũ, nay là thôn Liên Bằng, xã Hương Thọ, thành phố Huế. Địa thế dải đất này rất đẹp. Hiện thời cây cối ở chung quanh đã lùi xa để lại những khoảng trống nối dài trên các triền đồi thoai thoải, khu lăng trở nên lẻ loi hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂMCó lẽ một trong những loài động vật gần gũi, gắn bó với người dân xứ Huế trong mọi thời cuộc là loài hến. Cho dù trải qua bao thăng trầm, bao biến cố trên mảnh đất nhỏ bé này, mọi thứ có thể thịnh suy nhưng hến vẫn trường tồn. Trường tồn như một nét văn hóa thầm lặng, khiêm tốn, không khua trương, ồn ào,… mà âm thầm tỏa ngát hương.

  • PHAN HỨA THỤYChùa Thiên Mụ là một công trình kiến trúc có qui mô lớn và xuất hiện khá sớm trong quá trình hình thành phát triển của văn hoá Phú Xuân. Cũng như phần lớn các công trình kiến trúc cổ khác, chùa Thiên Mụ từ khi mới được xây cất trở về sau lần lượt đã được dựng nhiều tấm bia, hoặc để ghi lại công việc tu tạo, hoặc đề thơ vịnh cảnh, hoặc ghi cảm tưởng trong những lần vãn cảnh chùa của một số vua chúa nhà Nguyễn.

  • NGUYỄN ĐÌNH HÒE VÀ L.CADIÈRE(Tiếp theo SH số 5 – tháng 2 - 1984)

  • NGUYỄN ĐÌNH HÒE VÀ L.CADIÈRE(B.A.V.H. 1992, trang 189-203)HỒ TỊNH TÂM - Từ thời Gia Long, khi xây kinh thành Huế, một nhánh sông đã được ngăn chặn lại ở trên làng Kim Long hiện nay và dòng sông đó bị lấp đi ở một vài nơi, một số nơi khác thì được mở rộng và uốn nắn lại cho đều đặn. Chính một phần của nhánh sông ngày xưa ấy đã tạo ra Hồ Tịnh Tâm, nay ở tại bên trái đường Lục bộ, gần với Cầu kho, hay vùng nhượng địa (cho Pháp ở Mang Cá lớn).

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGCó lẽ thiên nhiên đã giữ một vai trò nào đó, thực quan trọng, trong sự tổng hợp nên cái mà người ta có thể gọi là “bản sắc Huế”. Bởi vì thiên nhiên bao giờ cũng biểu hiện một cách nhất quán giữa cái hằng cửu và cái biến dịch, giữa cái biến động và cái tĩnh tại.

  • MAI KHẮC ỨNGBất chợt. Tưởng như có con lợn chạy giữa sân điện Cần Chánh tại Hoàng thành Huế. Định thần lại tôi đã nhìn thấy chúng trong mấy ô trang trí bên thân hai chiếc vạc đồng đúc thuở Kim Long còn là phủ chúa dưới thời Hiền vương Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687) mà lạc khoản lại ghi Thịnh Đức thứ 8 và Thịnh Đức thứ 10. Bản chú thích bên hai vạc này ghi là đúc năm 1660 và 1662.

  • L.N.D: Vào năm 1822, dưới triều Minh Mạng, một người Anh là John Crawfurd có dịp đến Huế và được hai người Pháp lúc bấy giờ đang làm quan ở đây là Chaigneau và Vannier hướng dẫn đi thăm Kinh Thành. Dưới đây là những gì mà Crawfurd đã viết về Huế trong ngày viếng thăm ấy: 29-9-1822. Chúng tôi dịch từ bản Pháp ngữ của H.Cossarat trong B.A.V.H. 1933, No1-2, tr.5-10.

  • PHẠM ĐĂNG TRÍThuở ấy, có nhiều người từ những miền đất màu mỡ nhưng vẫn dời nhà đến ở trên một vùng gò đồi đầy sỏi đá. Nguyên nhân lôi cuốn họ tới đây là do màu sắc thiên nhiên ở chốn này thật là thanh tú, đa dạng và không ngừng thay đổi.

  • LÊ VĂN HẢOTháng 12 năm 1979 tại thành phố Pitxanulôcơ (Pitsanulok) Thái Lan, ông Tổng Giám đốc Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hoá của Liên Hiệp Quốc (gọi tắt là UNESCO) đã triệu tập một cuộc họp của những chuyên gia nhằm chuẩn bị cho một Chương trình nghiên cứu các đô thành lịch sử ở châu Á. Chương trình này sẽ nhằm vào một số đô thành cổ kính đã từng đóng những vai trò có ý nghĩa trong sự phát triển và giao lưu của các nền văn hoá ở châu Á.

  • Chiều 8.6, tại Nam Châu Hội Quán trên vùng cỏ cây Kim Long xứ Huế, GALA TINH HOA SÔNG HƯƠNG đã được tổ chức nhằm tôn vinh Nhà xuất bản Tinh Hoa - Huế.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNỞ mục “Phương vị quê hương” này, tạp chí sẽ lần lượt đăng các bài tìm hiểu văn hoá ngắn gọn nhưng có… duyên văn chương. Chúng tôi vui mừng được sự hưởng ứng của các nhà nghiên cứu lão thành am hiểu Huế - Bình Trị Thiên như các cụ Bửu Kế, Phan Văn Dật, Nguyễn Hữu Đính, Phạm Đăng Trí… cùng các anh Lê Văn Hảo, Nguyễn Đắc Xuân, Phan Thuận An… Chúng tôi cũng mong nhận được bài của các bạn ở các tỉnh miền Trung nói về phong vị quê hương mình để tạo được giao lưu văn hoá trên giải đất gắn bó lâu đời này.

  • MẶC KHÁCHHuế nguyên là đất đế đô, nơi sinh trưởng của vua chúa, chốn triều đình quan lại, đa số tao nhân mặc khách đều tụ họp về đây. Do đó mà tiếng nói của xứ Huế, trang nhã thanh tao, có khi lại nặng mùi “bề trên” hoặc kiểu cách đến buồn cười.