PHAN THUẬN AN
Nghệ thuật cung đình là những loại hình nghệ thuật gắn bó thiết thân với sinh hoạt tinh thần và vật chất của giới cầm quyền tại kinh đô dưới các triều đại quân chủ ngày xưa.
Múa Ba Vũ, nghệ thuật cung đình Huế - Ảnh: Ngô Văn Duệ
So với nghệ thuật dân gian của giai cấp bị trị thì nghệ thuật cung đình chiếm phần ưu thế, ít nhất là về phẩm chất, vì đó là sản phẩm hưởng thụ của tầng lớp cai trị ở trong thế thượng phong.
Nếu toàn bộ các sản phẩm thuộc mọi loại hình nghệ thuật cung đình Việt Nam ngày xưa đều được bảo tồn trọn vẹn cho đến ngày nay thì chúng ta còn được một khối lượng di sản văn hóa nghệ thuật đồ sộ và giá trị biết bao! Thật đáng tiếc là tuy đã có nhiều, nhưng vì các lý do khác nhau, nay chẳng còn được bao nhiêu.
Chỉ cần điểm lại con số các kinh đô đã xây dựng và con số cố đô hiếm hoi còn lại tại Việt Nam thì đủ thấy, vì nơi mà nghệ thuật cung đình để lại dấu ấn rõ nhất là tại các cố đô.
Chưa kể đến các triều đại xa xưa trong lịch sử, chỉ tính thời gian trong 1.000 năm nay từ thời Đinh đến các thời Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, Tây Sơn, kinh đô của các triều đại ấy đều đã điêu tàn, mai một. Thành kinh đô xưa nhất là Cổ Loa đắp bằng đất, nay đã tan hoang. Thành Mê Linh và thành Đại La không được rõ nét. Cố đô Hoa Lư chỉ có dấu vết mấy vòng thành. Thăng Long, rồi Đông Đô chẳng có gì đáng kể. Thành Hoàng Đế của Tây Sơn tại Qui Nhơn cũng đã bị làm cho biến tướng. Chẳng những các tư liệu vật chất để lại đã hiếm, mà những tư liệu thành văn về nghệ thuật cung đình cũng chẳng còn lại được gì đáng kể. Nay nhìn lại, chúng ta thấy chỉ còn kinh đô nhà Nguyễn ở Huế là tương đối nguyên vẹn. May mà còn có nó để thấy được một phần nào diện mạo chung của thời đại quân chủ kéo dài mấy ngàn năm, và nhất là thấy được một cách cụ thể nghệ thuật cung đình của giai đoạn cuối cùng thuộc thời đại ấy.
Lý do tồn tại của nghệ thuật cung đình Huế rất đơn giản: triều Nguyễn chỉ mới chấm dứt cách đây chưa đầy nửa thế kỷ (1945).
Dù đã bị thiên nhiên và nhất là chiến tranh tàn phá đi một phần, nhưng nhìn chung, Huế còn bảo lưu được khá nhiều loại hình nghệ thuật cung đình quí báu của dân tộc một thời.
Riêng hệ thống các công trình kiến trúc tạo ra bộ mặt kinh đô triều Nguyễn đã là một chỉnh thể các tác phẩm nghệ thuật cung đình có giá trị cao, bao gồm thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền miếu, phủ đệ các ông hoàng bà chúa...
Sông Hương và núi Ngự Bình là hai yếu tố địa lý tự nhiên mang tính quyết định trong việc qui hoạch và thiết lập hệ thống kiến trúc cung đình ấy.
Ở bờ bắc sông Hương, Kinh Thành với diện tích rộng hơn 500 ha và chu vi gần 10 km được xây dựng theo kiểu Vauban (Pháp), là một pháo đài vĩ đại và kiên cố dùng để bảo vệ cho các cơ quan hành chính trung ương của triều đình, như Lục Bộ, Viện Cơ mật, trường Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Khâm Thiên Giám, Viện Đô Sát, lầu Tàng Thơ...
Bên trong Kinh Thành còn có Đại Nội, gồm Hoàng Thành và Tử Cấm Thành, với hơn 100 công trình kiến trúc lớn nhỏ, trong đó có hàng chục tòa cung điện lộng lẫy vàng son, dành cho vua cùng đình thần làm việc và hoàng gia ăn ở.
Phủ đệ các ông hoàng bà chúa và dinh thự của các quan lại cũng như nhà cửa của các thế gia vọng tộc thì ở tại các xóm phường nằm gần ngoài Thành Nội, như Gia Hội, Vĩ Dạ, Kim Long...
Xa xa về phía nam sông Hương là 7 khu lăng tẩm của các vua nhà Nguyễn. Lăng tẩm các vua là những đóa hoa nghệ thuật đầy hương sắc nở ra giữa chốn núi đồi tĩnh mịch. Mỗi lăng tẩm là một cõi thiên đường mà chủ nhân của nó đã tạo ra khi còn tại vị, để khi chết trở thành nơi sống vĩnh hằng ở bên kia thế giới. Dù là chôn mộ địa, nhưng nhờ mang nghệ thuật kiến trúc đặc biệt, cho nên lăng tẩm Huế vẫn âm vang cuộc sống, ríu rít tính đời. Đây quả thật là chỗ "ngậm cười nơi chín suối" của các đấng quân vương. Chính nhờ vẻ đẹp mỹ miều đầy chất triết lý ấy mà lăng tẩm Huế đã được đánh giá là một thành tựu rực rỡ nhất trong nền kiến trúc cổ của nước ta và được xếp vào hàng kỳ quan của thế giới. Chủ đề tư tưởng thì giống nhau, nhưng biểu hiện nghệ thuật ở mỗi lăng tẩm lại mang cá tính, phong cách riêng của từng ông vua lúc sinh thời.
Nằm xen kẽ giữa các khu vực kiến trúc nghệ thuật ấy, và rải rác đó đây là đàn Nam Giao (nơi vua tế trời đất), đàn Xã Tắc (nơi vua tế thần lúa), Văn Miếu, Võ Miếu (nơi thờ các vị thánh hiền và các nhà quân sự tài ba, tại đây hiện còn hơn 30 tấm bia tiến sĩ), Hổ Quyền (chỗ voi và cọp đấu nhau cho vua xem), thành Trấn Hải (giữ cửa biển Thuận An).v.v...
Mãi đến ngày nay, Huế vẫn là thành phố của nhà vườn với biết bao ngôi nhà cổ kính và hàng chục mái chùa xưa - một cái gạch nối giữa kiến trúc cung đình và kiến trúc dân gian - tọa lạc giữa những xóm phường yên ả hay khiêm tốn ẩn mình giữa vùng gò đồi hoặc các thôn làng ven thành phố. Tính triết lý của đạo Phật và nhân sinh quan của phương Đông đã thể hiện rõ trên từng tác phẩm kiến trúc tạo cảnh đầy trí tuệ của các nhà sư và các gia chủ.
Song song với hệ thống kiến trúc ấy, Huế còn bảo lưu được nhiều loại hình nghệ thuật cung đình khác: hàng ngàn tác phẩm điêu khắc, hội họa, trang trí, đồ thủ công mỹ nghệ.
Ở nội ngoại thất các tòa cung điện huy hoàng tráng lệ trong phạm vi Kinh Thành, Đại Nội hay tại các lăng tẩm, người xưa đã trang trí, trang hoàng rất nhiều tác phẩm nghệ thuật được chạm trổ tỷ mỷ công phu, sơn son thếp vàng lộng lẫy...
Các tác phẩm cung đình ấy được chế tác bằng đủ loại chất liệu: gỗ, đá, đồng, vàng, bạc, pháp lam, đất nung, vải, mây tre, sành sứ v.v...
Ngoài ra, Huế cũng còn bảo lưu được một nền nghệ thuật múa hát và ca nhạc cung đình rất phong phú. Các nghệ nhân trong Đoàn Múa Hát Cung Đình Huế hiện nay có thể biểu diễn hàng chục điệu múa, bài ca, bản nhạc, vở tuồng đã từng diễn ra trong các đền miếu ngày xưa. Ngay trong lăng Tự Đức hiện nay cũng còn duy trì được một nhà hát độc đáo (Minh Khiêm Đường) mang đầy tính nghệ thuật.
Người ta cũng có thể tìm thấy và thưởng thức một số các di sản khác thuộc nghệ thuật cung đình, như các món ăn "thượng thiện" dành cho vua chúa, lối sống của hoàng tộc, của con cháu các đại thần, kiểu cách phục sức, nói năng, giao tiếp thời xưa.
Nhìn chung, nghệ thuật cung đình thời Nguyễn đã chịu ảnh hưởng ít nhiều của nghệ thuật Trung Hoa và nghệ thuật phương Tây, thậm chí của nghệ thuật Cham-pa nữa, nhưng sự tiếp thu tương đối có chừng mực, biết gạn đục khơi trong cho thích hợp với phong thổ và con người miền sông Hương núi Ngự. Và tất nhiên, nghệ thuật cung đình Nguyễn, đại diện cho nghệ thuật cả nước trong gần một thế kỷ rưỡi (1802 -1945), cũng đã chịu ảnh hưởng không ít của nền nghệ thuật cổ truyền từ các triều đại trước nó. Có thể nói Huế là nơi đọng lại những giá trị thẩm mỹ của nghệ thuật truyền thống Việt Nam.
Cách đây 60 năm, trong bài viết nhan đề "Richesses touristiques !" (sự phong phú về du lịch) đăng trên một tập sách giới thiệu về các tỉnh Trung Kỳ, ở đoạn đề cập đến Huế, một tác giả phương Tây là A.Sallet đã nói :
"Đi du lịch ở Trung Kỳ, Huế là nơi đáng dừng lại lâu nhất. Là kinh đô, Huế tập trung rất nhiều thứ của vua chúa để lại, các gia đình xưa, những truyền thống đều được bảo tồn"(L’Annam, I.D.E.O, Hà Nội, 1931, trang 53). Bấy giờ, tập sách "Hué, Ville Impériale" cũng đã viết rằng : "Huế không giống bất cứ một kinh đô nào khác ở Đông Dương : Hà Nội, Sài Gòn, Phnom Penh và ngay cả Vientiane nữa, đều là những thành phố phần lớn đã hiện đại hóa, xây dựng theo những quan niệm của người Âu. May mắn thay, Huế còn bảo lưu được tính địa phương của nó ... Thành phố còn giữ lại được rất tốt cái kinh đô tinh thần và chính trị mà vị trí của nó đã được lựa chọn theo những lý do thần bí, và phương hướng của nó đã dóng theo những chỉ dẫn của các nhà phong thủy, hai hòn đảo Thanh Long và Bạch Hổ chầu về giữa dòng sông thiêng liêng" (I.D.E.O., Hà Nội, 1931, trang 2).
Năm 1978, sau khi đi khảo sát những công trình kiến trúc nghệ thuật cổ xưa ở các cố đô trong vùng Đông Nam châu Á, như Pagan(Miến Điện), Soukhothai, Bangkok (Thái Lan), Angkor (Cambodge)..., một chuyên gia của UNESCO là kiến trúc sư Pierre Pichard đã viết rằng Huế là cố đô duy nhất trong vùng còn bảo lưu được hầu như nguyên vẹn kiến trúc và thiên nhiên của nó; còn các cố đô kia thì hoặc bị bỏ phế trong rừng sâu cho thiên nhiên tàn phá, hoặc bị biến thái do sự phát triển bừa bãi của các công trình kiến trúc hiện đại (International co-operation to preserve Hué, World Cultural Heritage Bulletin, số 12, tháng 10-1978, Paris, trang 19).
Nhìn chung, trong kiến trúc, trong điêu khắc, hội họa, trang trí, trong đồ cổ cũng như trong sinh hoạt của con người đang sống tại chỗ hiện nay, Huế là cả một kho báu rất lớn về nghệ thuật cung đình. Nó là "tập đại thành" của cả ngàn năm lịch sử dân tộc trải qua các thời Đinh, Lý, Trần, Lê...
Vào năm 1981, ông Tổng Giám Đốc UNESCO, ông A.M.M’BOW đã cho rằng "Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hóa sôi động (Trích lời kêu gọi cứu vãn Huế). Cho nên, Huế được xem chẳng những là một di sản văn hóa quốc gia, mà còn là một bộ phận hợp thành của di sản văn hóa quốc tế.
Giá trị của nghệ thuật cung đình Huế là như thế. Giá trị đó trở nên cao hơn khi Huế là cố đô duy nhất còn lại trên đất nước ta. Nếu không còn Huế thì biết tìm đâu để thấy được một cách cụ thể nghệ thuật cung đình của người Việt Nam ?
Một vấn đề cần đặt ra là chúng ta phải bảo tồn tổng thể di sản nghệ thuật cung đình còn một không hai này như thế nào để nó khỏi bị mai một như số phận hẩm hiu của những cố đô trước thế kỷ XIX. ,
P.T.A
(TCSH46/04-1991)
BÙI KIM CHI
“Giữ chút gì rất Huế đi em
Nét duyên là trời đất giao hòa
Dẫu xa một thời anh gặp lại
Vẫn được nhìn em say lá hoa.
(...)
CHU SƠN
1.
Này, xa là những cảm nhận chủ quan hàm chứa một góc nhìn giới hạn, tương đối và hoàn toàn xa lạ với những khẩu hiệu thời thượng là vĩnh cửu, muôn năm.
TRẦN VĂN DŨNG
Cùng với rất nhiều nghề thủ công truyền thống trên đất nước Việt Nam, nghề Kim hoàn được biết đến với sự sáng lập của hai vị tổ sư Cao Đình Độ và Cao Đình Hương ngay trên vùng đất Cố đô. Tài năng của các ông đã biến nghề kim hoàn trở thành một nghề thủ công độc đáo, mang đậm sắc thái Việt và được truyền bá khắp ba miền đất nước trong hơn hai thế kỉ qua.
LÊ VĂN LÂN
Hằng năm cứ vào dịp 9/1 (ngày sinh viên học sinh), ngày 26/3 (ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và giải phóng Huế), những người hoạt động trong phong trào (người ta thường gọi là “dân phong trào”) lại họp mặt tưởng nhớ những người hi sinh, ôn lại truyền thống, chia sẻ những trăn trở trước thời cuộc và tự dặn mình phải sống xứng đáng với những người đã khuất, những đùm bọc thương yêu mà nhân dân đã dành cho mình.
ĐÀO HÙNG
(Nhân kỷ niệm ngày Báo chí cách mạng Việt Nam)
Hồi còn bé, đôi lần tôi được cha tôi là ông Đào Duy Anh, đưa đi chơi và có ghé thăm cụ Huỳnh Thúc Kháng. Rồi cũng có lần tôi thấy cụ Huỳnh đến gặp cha tôi ở ngôi nhà trên đường Hương Mỹ (nay là Chu Văn An), thành phố Huế.
LÊ MẬU PHÚ
Tùy bút
Sông Hương bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, chạy dài hơn 60 cây số, qua nhiều rừng núi với thảm thực vật nhiệt đới đa dạng và nhận nhiều nguồn nước từ những con thác, rồi sau đó hợp lưu tại ngã ba Bằng Lãng thành một dòng sông, gọi là sông Hương. Từ đó, sông xuôi về biển thêm 30 cây số nữa.
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
“Ơi khách đường xa, khách đường xa
Dừng chân ghé lại Đông Ba chợ mình”
TRẦN NGUYÊN SỸ
Ghi chép
Chúng ta thử hình dung Huế như một ngôi nhà cổ, mà con ngõ đón thập khách phía Nam là đoạn quốc lộ từ Thủy Dương xuống Phú Bài thì khỏi cần trả lời câu hỏi: Với Huế, Hương Thủy có quan trọng không?
HỮU THU - BẢO HÂN
Không ít người ở Huế thế hệ sinh năm 1950 đã từng được ngắm cái điệu đà của rong rêu, sự bỡn đùa của từng đàn cá tung tăng theo chiều con nước sông Hương.
PHAN THUẬN AN
Thái giám hay hoạn quan là những người đàn ông không có sinh thực khí, chuyên ở hầu hạ trong hậu cung của vua.
HỮU THU & BẢO HÂN
Đường 12 được giới hạn từ ngã ba Tuần lên Bốt Đỏ. Chỉ kéo dài hơn 50 cây số nhưng đây là quãng đường không dễ vượt qua, bởi trước năm 1990, muốn lên A Lưới, từ Huế xe phải chuyển hướng ra Đông Hà, ngược đường 9, đến cầu Đakrong rẽ trái rồi men theo đường Hồ Chí Minh để vào. Thuở đó, đường xa, xe xấu nên cán bộ được phân công lên huyện vùng cao này ai cũng ái ngại và bỏ cuộc.
BÙI KIM CHI Tiên tổ phương danh lưu quốc sử Tử tôn tích đức kế gia phong
PHAN HƯƠNG THỦY Hệ thống lăng tẩm và Cung điện ở Huế luôn luôn là một đối tượng chính của các nhà nghiên cứu Mỹ thuật, và các nhà nghiên cứu lịch sử Huế đã để lại cho chúng ta những cái mà thời trước không còn.
Một số anh chị em ở Huế biết tôi có ghi chép được ít nhiều về Nguyễn Tuân, bảo tôi viết lại và gửi cho Tạp chí Sông Hương. Riêng tôi, muốn tạo một dịp để anh Nguyễn nói trực tiếp với bạn đọc Sông Hương, nên xin được hỏi anh Nguyễn chung quanh chuyện Huế, được anh Nguyễn nhận lời, tôi xin trung thành ghi lại toàn bộ cuộc trò chuyện đó.
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANGHiếm nơi nào trên đất Huế có phong thủy hữu tình, trời, đất, nước, người cùng quyện hòa thanh thái trong một không gian xanh ngát xanh như đất thôn Vỹ. Đất này được dòng Hương Giang và phụ lưu Như Ý ôm trọn vào lòng như hai cánh tay của một người mẹ vỗ về.
TRẦN THÙY MAI Tôi sinh ra và lớn lên ở Huế. Với tất cả mọi người, ai cũng thế, sau quê hương lớn là Tổ quốc Việt Nam, đều yêu và đều thích nói về quê hương nho nhỏ của mình, nơi đón tiếp mình từ lòng mẹ và cho mình những ấn tượng đầu tiên về thế giới. Hơn nữa, đó lại là một vùng đất hay được nhắc nhở và ngợi khen.
ĐỖ NAM Hàng trăm năm nay ai cũng biết đầm phá Tam Giang - Cầu Hai có 02 cửa thông ra biển: Thuận An và Tư Hiền.
BÙI MINH ĐỨC (Tiếp theo Sông Hương số 267, tháng 5 - 2011)
HỒ ĐĂNG THANH NGỌC(Kỷ niệm 95 năm ngày mất Thái Phiên - Trần Cao Vân: 17.5.1916 - 17.5.2011) Bút ký
Bà Francoise Corrèze - đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, là một chiến sĩ chống phát xít, một người bạn của Việt Nam từ nhiều năm nay. Sau những chuyến đi thăm nước ta trong chiến tranh cũng như từ ngày đất nước thống nhất, bà đã viết nhiều tác phẩm về Việt Nam. Lần đầu tiên đến Huế đầu năm 1985, bà đã ghi lại những cảm nghĩ của mình. Chúng tôi xin giới thiệu một số đoạn sẽ được in trong cuốn sách viết về thanh niên Việt Nam bằng tiếng Pháp.