Mường Cự Thắng! Một thế giới của những mái nhà sàn thông thênh có thể tập xe đạp trên gác, bao quanh chân núi Sụ có bàn cờ Tiên bên dòng suối Cái xanh rêu mướt mát. Cây hoa dây bướm. Trái đũm hương. Gai mây, gai mái, gai phù quân. Ruồi vàng, muỗi hổ u u bay rối, vắt lá nhảy bước tán cây. Ve sầu núi cánh mỏng lụa kêu inh inh trong nắng gắt cuối hè. Khói cơm lam, cá sáp nướng và canh rau rớn phơi tái nấu mẻ với cá trình mun trong gác Mường đã làm nên không ít thịt xương tôi. Tuổi thơ tôi tha thủi bên những cối gạo nương thậm thịch đọc Alphonse Daudet, một trong món hành trang còn sót lại trong tay nải cha tôi. Nghe tiếng mõ trâu khua lốc cốc, ngỡ hẳn sắp có thiếu nữ Mường nào đó, chốc lát thôi sẽ bước từ trên đỉnh núi Sụ nắm tay tôi dắt lên mây trắng tơi tả quấn dọc sườn non cuối dãy Hoàng Liên Sơn, để nghe già Đông Chắt kể chuyện nhà Lang. Già là ông nội người bạn Mường thủa thiếu thời của tôi. Già gân guốc bất ngờ như khúc gỗ lũa mới moi lên từ đáy rừng già. Trầm tư và dứt khoát, già chiêu nước cây tiêu thực bằng bát lớn. Ngọn lửa đêm đông của củi sồi đen, than hồng, tro xám trắng vùi sắn nếp bở tung, khoai lang ngọt bùi rồi bung bỏng ngô, bỏng hạt cao lương bên dưới gác bếp treo chứa từng xâu nhái, từng xấp tên nỏ còn dính máu khô của mãng thú rừng già. Tôi nhấm nháp sắn khoai trong nhấp nhổm lo sợ ảo giác rằng loạt mũi tên trên đầu kia bất ngờ cắm vào đâu đó thịt da mình. Lạ lùng bao nhiêu năm đã qua, trong tôi còn roi rói âm điệu chất giọng Mường cổ khê khê dấp dính sắc thái Kinh của già. Nào là con gái nhà Lang xinh đẹp tắm suối Cái sợ đỉa bắt già cõng như thế nào. Nào là nhà Lang cho người phục kích cướp súng Tây ủng hộ Việt Minh ra sao. Hứng lên già còn hát Đúm hát Giang với người đàn bà tưởng tượng nào đó đang ngồi trước mặt. Giai điệu tha thiết lại khiến lòng tôi thê thảm, không đâu tự cất lên lời: Lúa mường Trời. Con gái mường Trời Thơm đẹp như nhau Sao không nhìn tôi đi Sao không đạp lên tôi đi Tôi cõng em một lần sang con suối nhỏ Mà tôi phải địu em trên lưng cả đời. Tình tôi đếm bằng từng ấy lá cây rừng Lưỡi Hái Tình em đếm một ngón tay. Con gái nhà Lang cành bạc quả vàng Sao chỉ hé cho ta quả mòng quả ngọt. Hay dưới bóng duối cổ kính nơi ngã ba con đường quốc lộ, cổ kính như lớp da mồi xếp nếp cổ áo nâu, già Đông Chắt loay hoay khề khà đánh vật với một khúc gỗ, một ống bương gốc, một thanh tre ngà, một mẩu cành gỗ mơ... Qua giấc trưa và tàn những câu chuyện về nhà Lang thì trước mắt bọn trẻ chúng tôi, già Đông Chắt đang ngắm nghía cần cối gạo nương bằng gỗ táu mật vàng sậm hoặc gỗ nhãn rừng đỏ, một cánh nỏ, một nõ điếu hút thuốc lào, một mõ trâu đại đầy đủ ba hoặc dùi gỗ sến buộc dây xe bằng sợi nõn ngọn dây sắn dại. Giơ cái vật vừa được chế tác ấy lên, già Đông Chắt thành kính. - Ta đội ơn thần núi thần rừng đã giúp ta làm được một thứ này nữa. Thần rừng, thần núi cho vay hôm nay một, ngày mai ta sẽ trả thần núi thần rừng gấp mười. Chúng tôi, đám trẻ người Kinh nửa tin nửa ngờ, còn thằng Lưu và đám bạn Mường thì mồm miệng há hốc tin. Trong lớp học vỡ lòng của thầy giáo Tựu, chúng tôi được dạy một cách ấu trĩ rằng không được tin bất cứ điều gì ngoài chủ nghĩa xã hội, ngoài những con chữ in trên giấy vàng vàng. Những món đồ làm từ cây rừng, già Đông Chắt đem đổi trao tay cho ai đó trong chiềng (xóm Mường) hoặc mấy gia đình người Kinh mới lên xây dựng kinh tế nép loi thoi bên con đường lấy cút rượu sắn, bơ lạc hoặc mắm tép, mắm tôm và những gắp cá giếc, cá rô nướng quá lửa của bà Lừng hàng gồng ngoài Phù Lao đi rong vạ vật. Mỗi ngày già chỉ làm một hai món có thể đắp đổi đủ dùng cho bản thân và đám cháu lít nhít chỉ rặt mắt, răng, và tóc. Dĩ nhiên, đôi khi tôi cũng được hưởng lộc rừng của ông. Trước khi vào rừng, nếu phải tiểu tiện, đại tiện nơi cửa rừng, thì dứt khoát buổi rừng hôm ấy già Đông Chắt gác dao. Làm ô uế rừng, ông không dám vào rừng. Nhìn cánh rừng thiêng Đồi Giòng bị công nhân lâm trường 41 đốn hạ để trồng cây theo qui mô công nghiệp, già Đông Chắt xanh mặt. - Chết thôi, vạn vật hữu sinh hữu linh hồn. Tàn sát cây rừng hàng loạt thế kia thì báo ân báo oán dài lâu lắm đấy! Tôi không biết là rừng sẽ báo oán gì, chỉ ghê ghê sợ sợ. Trong lúc Miếu Mường thờ thần rừng, đình Mường dưới Đồng Tế bị phá dỡ làm kho phân đạm, chặt một cây mít bị sâu không có quả, già Đông Chắt cũng phải bấm ngón tay lẩm bẩm tính ngày, tính tháng. Thắp hương, già quì mọp trước gốc cây bái lạy như một sự lẩn thẩn. - Thưa ông mít. Ông thấy mặt trời trước tôi. Ông được cha ông cụ ông kỵ nhà tôi tạo tác nên. Suốt bao ngày qua tháng lại ông đã cho dòng họ tôi sự ngon sự ngọt của múi, sự bùi sự béo của hạt, đến cái vỏ gai cũng làm ngon miệng trâu miệng bò. Nay số ông đã tận, tôi hoá kiếp ông khỏi kiếp mít xó vườn cho trâu bò ỉa quanh gốc, ông làm kiếp cây thông cây tùng oai vệ thiêng liêng trên đỉnh Hoàng Liên. Kính lạy ông mít. Hợp tác xã hoá, trâu bò hết nuôi tập trung rồi xé lẻ nuôi tận hộ, dù nuôi kiểu gì trâu bò miền đồng rừng khi chăn thả vẫn phải có mõ có chuông đeo để xua thú dữ, hay khi lạc bầy còn biết chỉ dẫn cho chủ lần rừng đến tìm. Ai cũng đua nhau đến đặt già làm mõ cho trâu nhà mình. Nhưng già phải lựa chọn chán chê mới nhận lời một ai đó. - Trâu bò hay con người cũng giống nhau cả. Không phải ai cũng có danh có tiếng được. Thứ trâu nái chươn không chửa không đẻ lần nào, chỉ rình chực ăn lúa non, bừa chưa đến góc bờ đã quay ngoắt, làm sao đeo cái mõ của ông làm được. - Được! Con đực tơ nhà Đoán hôm nọ kéo củi biết ghìm dây thiếu (chạc) cứu chủ khỏi cây lăn ngang người. Già sẽ làm ngay một cái mõ đại xứng đáng cho nó. - Thôi, con trâu già đầu đàn sắp phế canh khôn ngoan lắm, không cần mõ chuông gì cho tốn. Loại này chỉ trừ bị cảm hay rắn cắn chết mới chịu nằm lại trên rừng. Những cái mõ làm từ một đốt gốc cây bương cái già mốc, mọc nơi chân núi đá. Đốt bương đẽo thành hình sơ qua tại chỗ khai thác, sau đó sấy khô cho ăn khói đủ ba năm trên gác bếp. Dùi gỗ cũng phải kén thứ gỗ sến lõi, sấy gác bếp cùng. Chọn ngày lợi khẩu, già mới đem ra bào nạo đánh bóng bằng sáp ong cho khỏi ngấm nước. Dây buộc bộ dùi và đeo mõ phải là thứ dây gai hoặc dây sắn dây chuốt nguyên tơ trắng xe chỉ, rồi chập đôi, rồi chập ba, chập tư tẩm sáp. Khi mõ làm xong, kén ngày đại an, đích thân già buộc mõ vào cổ trâu và nói mấy câu như niệm chú: Nhớ nhé vang vang vọng vọng... Người ta cần nghe thì mày lên tiếng, Đừng lên tiếng lung tung khi mày ở dưới sàn! Cái mõ trâu bằng gốc bương già. Nhưng mày không được nói tiếng bương, Mày ca lên tiếng mõ Mõ mà không kêu mõ Trẻ con cũng không khiến mày làm củi sưởi Mùi hôi trâu bò rối trí chiềng tao. Rừng chiều, rừng trưa lốc cốc mõ trâu điểm nhịp. Hoa trẩu hoa mua nở thảng thốt mấy lòng thung. Trâu bò nhà ai thiến hoạn bị dòi bọ, đều gọi già tới làm nèm. Lùi lùi tiến tiến trong khoảng bảy bước chân, già nhìn chừng chừng vào chỗ bị thương mưng tấy của con vật, miệng hô: “Chạy đi, chạy đi”! Tức thì lũ dòi cuốn lấy nhau thành cục trắng nhởn rơi bì bụp xuống đất. Thật chẳng thể nào tin nổi, quả là tôi đã chứng kiến già làm nèm không biết bao nhiêu lần ở xóm Sụ. Mỗi cuối Thu, khi nước suối lắng mình trong veo, ấy là lúc báo mùa lũ rừng của một năm chấm hết. Thời khắc để già Đông Chắt bận rộn làm cối gạo nước cho chiềng trên xóm dưới thay thế những cái cối bị lũ Xuân Hè cuốn trôi. Nhà tôi, xe đạp Thống Nhất và chiếc đài Ô-ri-on-ton như cái hòm khoá chuông - là hiện hữu của văn minh cơ khí đương đại. Mà tôi chỉ được phép sờ đến lốp, chứ cái đài đáng kính như cả toà lâu đài kia thì đừng có mơ, nên cỗ máy của văn minh tiền sử kia khiến tôi háo hức vô cùng. Nước từ đôi ống bương trên bờ phai dốc vào bầu nước khiến cần cối nâng lên cao, nước từ bụng cần cối oà ra, cần cối hẫng hụt trọng lượng bổ nhào xuống nện chày vào miệng cối giã. C ô ô ng! Bụp! C ô ô ng! Bụp! Cái trình tự nâng lên hạ xuống nhịp nhàng trung tính, không mệt mỏi, không rộn ràng hết ngày tới đêm rồi một sớm mai mùi gạo nương mới thơm lừng gọi bướm vàng bướm trắng rắc hoa vàng hoa bạc khắp thung xanh. Cối gạo nước theo nguyên tắc đòn bẩy, nếu bầu nước và phía mỏ cối chưa đủ nặng cần thiết để bập bênh, già Đông Chắt sẽ buộc thêm một hai cồ đá phiến vào một trong hai đầu cho thích hợp. Nguyên việc chọn gỗ cho việc chế tác cối gạo nước, cũng khiến già Đông Chắt mỗi giấc trưa nằm khèo dưới gốc duối gáy pho pho kéo lan tận xế chiều. Gỗ dùng là cần cối phải là gỗ chò nâu, thứ cây chịu nước, thân thẳng, lúc mới đốn hạ còn tươi gỗ mềm sụt, dễ cho việc khoét bầu nước. Thanh tai cối, kén lõi thọ vàng hươm, dẻo, dai, chịu mài mòn kể cả lúc khô hay bị nước suối dâng trào. Gỗ làm chày hoặc thành ngạnh, vãy táp, nhãn rừng, sâng đá dùng nguyên lõi. Còn cối giã, chỉ cần tang gỗ trẹo ít nứt dập cong vênh, chịu va đập. Đôi ống dẫn nước thì chẳng cần cầu kỳ gì mấy, có thể chặt bất cứ khóm bương mọc ven suối Cái. Ngày khai cối, cúng con gà con, nửa chai rượu và nắm xôi nóng lăn lòng cối. Già Đông Chắt tu rượu suông, còn xôi, gà con luộc lá chanh băm đều dúi cho đám chúng tôi mỗi đứa một miếng. Điềm nhiên nhận phần mình, vì chúng tôi biết phần của già sẽ là cối gạo nếp nương còn nguyên cả cám mà người chủ cối mang đến tận nhà già hậu tạ. Bây giờ thì hạt lép như hạt mẩy Bông uốn câu bông ngay cột cờ Đều nằm gọn lỏn trong bụng mày không cựa quậy Đều bị nhồi lên lộn xuống tùng phèo. Mấy ngày mấy đêm dằng dặc Vỏ trấu thì thành cám Nõn nà thành gạo thơm Ăn cơm thơm, mấy người biết gạo tắm mình trong cám trong rơm(*). Cối gạo nước dựng dọc triền suối Cái, khe Trâm, khe Hẻm, có thể xa nhà, có thể gần nhà, mà chẳng ai lấy của ai. Khách lỡ độ đường có thể vốc một hai vốc ở mỗi cối, nấu bữa lót lòng độ nhật, thì cứ tự nhiên không ai lấy làm phiền. Những đêm trăng sáng, tiếng cối gạo nước vọng xa vọng gần thứ thanh âm của chày gỗ của nước reo nghe buồn tênh, một nỗi buồn thanh bình yên ả, sao cứ khiến cho người nào đó vô tình để thấm vào ấn tượng, sẽ không bao giờ còn được tĩnh lặng mỗi khi nhìn về chân núi xa xanh đã phôi phai. Đấy là người dưng, huống nữa là tôi, người đã hưởng những tinh cốt của miền thượng du ê hề phong vị dân gian. Thấm thoắt đã mất ba mươi năm. Tôi đi lính rồi xa luôn mường Cự Thắng một mạch. Ngày tôi về thăm chốn cũ, gốc duối xưa sét đánh chết đứng. Bạn xưa làm chân gác chợ. Mộ già Đông Chắt chôn bên cối gạo nước. Cối còn nguyên mà nước cạn dòng. Nước mắt tôi tưởng cũng cạn. Đã từ lâu, tôi như không còn khả năng khóc một điều gì, mà chiều Thu bỗng nhoà đi. Tại sao thế nhỉ? Già Đông Chắt đâu có họ hàng gì nhà tôi. Miền thơ ấu dân gian ru rín tuổi tôi. Miền thơ ấu dân gian in hằn hồn tôi vết bỏng của biết ơn. Trên mộ già Đông Chắt, theo tục lệ chia của của người Mường, ngoài vật dụng cần thiết, còn có chiếc mõ trâu. Cái mõ không còn dùi gỗ. N.T.T.K (SDB 10-2010) --------------------------------- Những câu thơ in nghiêng là của tác giả |
Họ Nguyễn Tiên Điền của Nguyễn Du lừng danh như thế nào thì mọi người đã rõ. Nhưng gia phả họ Nguyễn này ở Tiên Điền thì cũng chỉ cho biết vị tổ khải tổ là cụ Nguyễn Nhiệm (Nhậm), kế tiếp theo trực hệ là Nguyễn Đức Hành (Phương Trạch hầu) , Nguyễn Ôn, Nguyễn Thế, Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nghiễm (Xuân Quận công) thân phụ của Nguyễn Du.
Văn hóa đình làng từng có một vị trí hết sức quan trọng trong cộng đồng người dân sống ở chốn kinh kỳ Thăng Long - Kẻ Chợ xưa kia. Theo thống kê, ở khu phố cổ hiện nay vẫn còn hơn 60 ngôi đình trong tổng số 112 công trình tôn giáo tín ngưỡng từng có tại đây. Số phận những ngôi đình đó giờ ra sao, trong thời buổi kinh tế “mặt tiền thành tiền mặt”?
LÊ THỊ MÂY
1
Hơn mười ba năm về trước, kỳ vừa ngưng bom đạn, thường từ sớm chủ nhật, tôi đã về quanh quẩn với phố đổ rậm rì cỏ dại. Nhiều lần đếm đi đếm lại, cũng chỉ còn sót có mười bốn cây dừa, thân bị băm kín miểng bom. Tàn lá xơ xáp, đỏ cháy.
PHẠM HỮU THU
Đầu tháng tư năm nay, tôi mới có dịp trở lại Hải Vân, bởi từ khi có hầm đường bộ, xe cộ ít qua lại con đường đèo quanh co, đầy hiểm nguy nhưng có cảnh quan tuyệt mỹ này.
Ngoài một dung lượng văn hóa tộc người đủ thỏa mãn độc giả thì công trình Mọi Kontum(1937) của Nguyễn Kỉnh Chi và Nguyễn Đổng Chi còn là một văn phẩm tạo được sức lôi cuốn, hấp dẫn đặc biệt. Tham luận góp phần lý giải thành công của tác phẩm trên ba phương diện: Lối khảo tả chân phương mà thấu đạt, trí tuệ sắc bén mà vẫn hồn hậu và văn phong ấn tượng.
Chỉ 15 năm, như chớp mắt, hàng loạt các công trình hiện đại đã hùng hổ đẩy những biểu tượng cũ của Sài Gòn đi sâu vào trong quá khứ, biến chúng thành những tiểu cảnh.
INRASARA
Khi mẹ la chị Hám: “Mi không biết hôm nay là ngày gì sao mà hốt thóc trong lẫm đi xay”, thì tôi biết ngay đây là ngày trăng hết harei ia bilan abih, ngày người Cham kiêng xuất hàng ra khỏi nhà.
Dù có thể không sinh ra trên mảnh đất này nhưng đã là người Việt Nam ai cũng cảm nhận được một Hà Nội của chúng ta từ sông Hồng đỏ nặng phù sa đến Hồ Gươm lung linh truyền thuyết, Văn miếu - Quốc Tử Giám thâm nghiêm... Và cũng xao xuyến nhận ra một cái gì đó rất Hà Nội, của Hà Nội, từ mùa thu se sẽ lâng lâng đến đêm nồng nàn hoa sữa, cơn mưa tìm về phố cổ với màn sương lan nhẹ mặt Hồ Gươm...
Chợ Gôi ở xã Sơn Hòa, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh có tự bao giờ? Câu hỏi thật khó và cũng chưa thể có câu trả lời đầy đủ. Mà cái tên nôm “Gôi” còn được dùng để chỉ địa danh của nhiều nơi khác ở Việt Nam.
Vượt chặng đường hơn 50 km về hướng bắc, từ trung tâm thành phố Pleiku - tỉnh Gia Lai chúng tôi tìm đến làng Kon Solal ở xã Hà Tây, huyện Chư Păh - một trong vài ngôi làng nguyên sơ cuối cùng còn lại của đồng bào BaNa.
Đó là ngôi làng dưới chân núi Chư Mom Ray nhiều huyền thoại. Điều kỳ lạ là cả đứa trẻ 10 tuổi cũng nói được nhiều thứ tiếng, không chỉ tiếng của dân tộc khác, mà họ còn nói được tiếng Lào, Miên và những đứa trẻ được đi học thì tiếng Anh cũng không phải là ngoại lệ.
“Thất bại trước quân Triệu Đà tại Cổ Loa của An Dương Vương dẫn đến 1.000 năm Bắc thuộc là nỗi đau lớn của dân tộc Việt. Nhưng Cổ Loa không chỉ ghi dấu thất bại thiên thu. Mà đó còn là nơi Ngô Quyền chọn làm kinh đô ngay khi đại phá quân Nam Hán năm 938, mở ra thời kỳ độc lập tự chủ của nước việt với triều đình phương Bắc. Và điều này đang bị lãng quên...”.
Chùa Tiêu Sơn (thường gọi là chùa Tiêu) - một danh thắng nổi tiếng và cũng là - trung tâm Phật giáo cổ xưa của Việt Nam.
Đền Quả Sơn ở Bạch Ngọc nay là xã Bồi Sơn, huyện Đô Lương thờ Lý Nhật Quang. Ngài là con thứ tám của vua Lý Thái Tổ, được phong tước Uy Minh vương. Mùa xuân năm 1902, Nguyễn Sinh Cung trên nẻo đường theo cha đi dạy học, thăm thú quê hương có đến chiêm bái đền Quả Sơn - một trong bốn ngôi đền linh thiêng nhất của tỉnh Nghệ.
Hát ví Sông La (tên gọi một làn điệu ví của Xứ Nghệ; cũng có thể hiểu là điệu ví ở sông La) tham luận này đề cập giới hạn những điệu ví ra đời, tồn tạị, phát triển ở vùng sông La, miền Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Chùa Nền, phường Láng Thượng, Đống Đa, Hà Nội, được xây dựng từ thời vua Lý Thần Tông (1116–1138), bài trí thờ Phật và song thân của thiền sư Từ Đạo Hạnh là ngài Từ Vinh và bà Tằng Thị Loan.
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG
Những năm cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, ngành Dân tộc học Việt Nam nói chung và miền Trung Tây Nguyên nói riêng được các nhà khoa học, chính trị, bác sĩ của Pháp tiến hành nghiên cứu và công bố nhiều tác phẩm có giá trị.
(SHO) Cứ hễ nhắc tới miền Trung, mỗi người Việt Nam có thể mường tượng ngay ra trong đầu những vùng đất của thiên tai triền miên. Miền đất, nơi mà từ tấm bé cho tới khi lìa đời dường như đều gắn với con chữ nghèo và sớm sương mưa nắng lận đận mưu sinh.
(SHO) Vậy là tôi đã ở Miền Tây mênh mang sông nước! Tôi đã đặt chân lên bến Ninh Kiều Cần Thơ và ấp Mũi Cà Mau! Tôi đã đi tàu ca nô trên những con kênh, con lạch mà hai bên bờ mọc đầy những cây đước, cây tràm…
Huế xưa – nay, Huế của khúc ruột nước non, chứa đựng trong mình cả một bề dày lịch sử thông qua nét trầm mặc cổ kính của những lăng tẩm, cung điện, chùa chiền… Nhưng có lẽ ít ai biết, Huế vẫn còn ẩn chứa trong mình một A Lưới - vùng đất nổi tiếng với những phong cảnh thiên nhiên kỳ thú và trầm lắng nhiều giá trị văn hoá cổ xưa của cộng đồng các dân tộc thiểu số.