Cấu trúc điệu hò mái nhì

09:44 17/06/2009
PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

Đối với nhiều người Việt Nam, nhất là người Huế, câu hò mái nhì trên đây đã trở nên quen thuộc. Không biết tự bao giờ, hò mái nhì đã trở thành làn điệu dân ca đặc trưng nhất của Huế. Mỗi khi nhắc đến thành phố nên thơ này, bên cạnh các đền đài, lăng tẩm cổ kính, người ta nghĩ ngay đến điệu hò mái nhì với âm điệu trầm mặc, trữ tình, sâu lắng, có lẽ do điệu hò này diễn tả được chân xác nhất chiều sâu tâm hồn của người dân xứ Huế giữa khung cảnh thơ mộng của miền núi Ngự sông Hương.

Cho đến nay, chưa có ai xác định được hò mái nhì ra đời từ bao giờ, nhưng môi trường sản sinh và phát triển của điệu hò này gắn liền với dòng sông Hương thơ mộng của xứ Huế là điều không ai có thể phủ nhận. Trước khi tình trạng cơ giới hóa diễn ra ở Huế, nghĩa là cách đây khoảng 50-60 năm, người ta vẫn nghe giai điệu của hò mái nhì vang vọng trên các con thuyền xuôi ngược sông Hương. Thuở ấy, các cô lái đò thường mượn làn điệu dân ca trữ tình này để bộc bạch nỗi niềm tâm sự chất chứa trong lòng, để vơi bớt cái mệt nhọc của tay chèo trên những quãng sông xa.

Đò từ Đông Ba đò qua Đập Đá,
Đò từ Vỹ Dạ, thẳng Ngã ba Sình.
Lờ đờ bóng ngã trăng chênh,
Tiếng hò xa vọng nhắn tình nước non.
                       (Ca dao)

Điệu hò có nhịp điệu tự do, chậm rãi, giai điệu nhẹ nhàng, êm ái cứ miên man, dàn trải, tỏa ra xa mãi, xa mãi trên mặt sông phẳng lặng. Những tiếng đệm hò, ơ... kéo dài tưởng như bất tận, cứ mãi níu kéo lòng người trong nỗi niềm tâm sự day dứt khôn nguôi...

Xét về lãnh vực văn học, hò mái nhì thường sử dụng các câu ca dao xứ Huế, về sau, còn có nhiều thi sĩ sáng tác các lời thơ cho điệu hò nổi tiếng này. Thông thường, lời hò được chia làm 2 phần. Phần đầu thường là một cặp thơ 7 chữ, 8 chữ,... với các lối biến thể rất tự do. Nội dung của phần này thường mang tính giới thiệu về không gian, cảnh vật (thường là ca ngợi cảnh sắc của xứ Huế) hoặc gợi mở ra ý nghĩa chủ đạo của toàn bài. Phần 2 luôn luôn là một cặp câu lục bát hoặc lục bát biến thể, thường mang tính tả tình. Đây chính là phần "mở nút" cho nội dung chính của toàn bài, nói lên tâm tình mà người hò muốn bộc lộ. Hai phần này gắn kết với nhau một cách logic và chặt chẽ, tạo nên một khối thống nhất cả về hình thức lẫn nội dung.

Trăng xứ Huế mơ màng màu sữa,
Nước sông Hương như dải lụa vuông dài
Cung đàn thánh thót nam ai,
Tiếng tơ não nuột khóc người ra đi.
                                                (Khuyết danh)
Hạt mưa rơi rơi mưa ngoài cánh cửa,
Mưa giữa chợ đời, mưa ở lòng tôi.
Gác tay nằm nghĩ sự đời,
Chán chê ngao ngán khóc cười dở dang.
                                                (Khuyết danh)

Tuy nhiên, từ cấu trúc văn học đến cấu trúc âm nhạc bao giờ cũng có một khoảng cách, dù ít dù nhiều. Đối với hò mái nhì, khoảng cách này càng đáng kể. Là một loại hình hát xướng đồng diễn, trong môi trường nguyên thủy của mình, hò mái nhì bao giờ cũng có người xướng, người , nghĩa là bên cạnh người hò chính (hò cái) còn có những người hò phụ họa (hò con). Hò cái diễn xướng nội dung chính của điệu hò, gọi là phần kể, hò con hò những đoạn phụ họa, gọi là phần xô. Mỗi khi hò cái dứt đoạn thì hò con đồng thanh cất giọng hò như một sự hưởng ứng, chia sẻ cảm thông với tâm sự của hò cái. Hãy thử phân tích cấu trúc âm nhạc của điệu hò mái nhì để thấy được hình thức cũng như tính chất đồng diễn, giao lưu của nó trong trình thức diễn xướng nguyên thủy. Ở đây, chúng tôi sử dụng băng tư liệu ghi lại giọng ca Huế đuợc xem là chính gốc, thuần chất của nghệ nhân Minh Mẫn với câu hò đặc trưng, quen thuộc nhất do cụ Ưng Bình sáng tác như đã nêu ở đầu bài viết này.

Trước tiên, hò cái xướng lên phần mở đầu với những tiếng đệm hò ơ kéo dài. Thực chất, ngôn ngữ văn học của phần mở đầu rất ngắn gọn, có khi chỉ cần đến vài từ, nhưng có tác dụng giới thiệu khái quát về câu hò sắp được trình bày. Thông thường, người ta lấy mấy chữ đầu của lời thơ, song cũng có khi hò cái chọn những ý hay và "đắt" ở giữa hoặc cuối lời thơ để xướng phần mở đầu.


Một điều đáng chú ý ở đây là người hò dùng thủ pháp đảo ngữ. Điều này thực ra hoàn toàn phụ thuộc vào thanh điệu của lời thơ. Sở dĩ người ta sử dụng thủ pháp này là vì phần mở đầu luôn kết bằng âm xàng (f) theo tuyến giai điệu từ xuống xàng (g - f), nên phần lời tương ứng phải là một từ có dấu huyền. Nếu từ này mang các thanh khác (ngang, sắc, hỏi, ngã, nặng) thì người ta không thể dùng âm xàng ngay được vì sẽ bị sai với quy tắc thanh điệu của tiếng Việt (trong trường hợp trên đây, chữ Văn Lâu sẽ thành ra Văn Lầu). Trong các trường hợp đó, hoặc người ta dùng thủ pháp đảo ngữ như trên để lấy từ cuối cùng có dấu huyền (từ chiều như trên đây) cho tương ứng với chữ xàng, hoặc người hò phải tiến hành về kết xàng một cách gián tiếp. Chẳng hạn, đối với từ có dấu sắc hoặc ngang, người ta phải dùng âm (thay vì âm xàng) rồi luyến nhanh xuống , sau đó luyến lên rồi trở về xàng và kết thúc ở đó như quy trình kết trực tiếp xê - xàng. Còn đối với các từ có dấu hỏi, ngã, nặng, do đều được phát âm ở âm vực thấp theo ngữ âm của tiếng Huế, chúng phải nhận âm xệ, hoặc cộng, sau đó luyến lên , lên rồi trở về xàng và kết ở nốt này. Để rõ hơn, xin xem vài ví dụ minh họa sau:


Trong các cách xử lý trên, nghệ nhân Minh Mẫn đã chọn cách thứ nhất (đảo ngữ), có lẽ do thủ pháp đảo ngữ tạo hứng thú hơn cho cả người hò lẫn người nghe. Tuy nhiên, sử dụng thủ pháp thứ hai (kết gián tiếp) vẫn được các nghệ nhân chấp nhận.
Khi hết phần mở đầu, hò cái dứt lời, thì ngay lập tức, hò con nhất loạt cùng xô:


Tiếp sau đoạn xô này là phần chính của điệu hò. Ở phần này, hò cái kể (diễn xướng) phần nội dung chính của bài với một giọng điệu ngâm ngợi tự do đầy chất tự sự. Hò cái phải chú ý ngắt câu sao cho bảo đảm được nội dung văn học của lời hò, nhưng cũng có lúc quy luật này bị phá vỡ để thực hiện sự ngập ngừng, day dứt trong nội dung của điệu hò:

Chiều chiều trước bến Văn Lâu/
Ai ngồi ai câu ai sầu ai thảm/
Ai thương ai cảm ai nhớ ai trông/
Thuyền ai thấp thoáng bên sông/
Đưa câu mái/mái đẩy chạnh lòng/

Phần chính của điệu hò kết thúc ở gần cuối lời hò, trước khi bước sang hai từ cuối của câu bát. Đến đây, hò cái tạm dứt lời, cũng có nghĩa là đã đến lúc hò con đồng thanh xô lên lần thứ hai:


                       hơ...                        ờ...         ơ...

Phần cuối của điệu hò là đoạn hò cái kể tiếp hai từ còn lại của lời hò, thường dùng thủ pháp đảo từ, lặp từ. Rồi điệu hò kết thúc bằng nốt xàng với tiếng đệm ơ ờ ngân dài, lan xa mãi như tan loãng vào không gian, để lại cho người nghe những âm hưởng dìu dặt vấn vương hoài không thôi.


               Ơ...            non  nước  ơ         non          ờ.......      ơ    

Như vậy, điệu hò mái nhì có kết cấu âm nhạc chặt chẽ, gồm 3 phần rõ rệt: phần mở đầu, phần chính và phần kết. Cả 3 phần này đều do một người hò cái lĩnh xướng, xen giữa chúng là 2 đoạn xô do hò con đồng xướng. Có thể lập thàh sơ đồ cấu trúc âm nhạc của điệu hò mái nhì như sau:

P. mở đầu Phần chính P. kết
hò cái hò con hò cái hò con  hò cái
                                                   

Với âm điệu trữ tình, trầm lắng, bâng khuâng, phản ánh được một cách sâu sắc tâm hồn của người dân xứ Huế; kết cấu âm nhạc chặt chẽ, được làm mềm bởi tính co giãn của nhịp điệu tự do, hò mái nhì đã nhanh chóng phổ biến khắp nơi và trở thành điệu hò đặc trưng nhất của xứ Huế. Từ môi trường dân gian, hò mái nhì đã sớm du nhập vào môi trường bác học ở bộ môn Ca nhạc Thính phòng của giới quý tộc Huế. Ở đây, hò mái nhì có thể dùng để kết hợp với các bài bản Nam của Ca Huế, thường là mở đầu cho các liên khúc: hò Mái nhì - Nam Ai - Nam Bình; hò Mái nhì - Nam Bình; hoặc hò mái nhì - Tương tư khúc... Trong môi trường này, nó càng có điều kiện được trau chuốt, gọt giũa, nâng cao về mặt nghệ thuật. Ở đây, nó được hát lên bởi những giọng ca mượt mà nhất, được làm giàu bởi nhiều lời thơ đẹp, mang ý nghĩa sâu sắc của các thi sĩ tài danh của vùng đất Kinh kỳ. Nhờ thế, hò mái nhì càng được bay cao, bay xa hơn trên nền trời nghệ thuật nước nhà. Và đến khi môi trường diễn xướng dân gian nguyên thủy của hò mái nhì không còn nữa do tác động của cuộc sống hiện đại thì môi trường Ca Huế là nơi tốt nhất có thể gìn giữ, nuôi dưỡng nó để điệu hò đặc sắc này còn tồn tại và lưu truyền đến ngày nay dưới những hình thức, tính chất nguyên vẹn nhất.

Bên cạnh đó, hò mái nhì còn được đưa vào sân khấu ca kịch Huế, khiến cho môi trường diễn xướng của nó càng được mở rộng. Nhưng, một điều cần chú ý là môi trưòng diễn xướng mới này khiến điệu hò mái nhì bị biến đối khá nhiều về mặt cấu trúc. Sân khấu là nơi mà các làn điệu, bài bản được vận dụng một cách hết sức linh hoạt, nên chúng thường phải cắt xén, kết nối khá tự do để phù hợp với tính kịch của sân khấu và với nội dung vở diễn. Do tính chất đặc thù đó, hò mái nhì, khi được đưa lên môi trường sân khấu ca kịch, đã không còn giữ được cấu trúc nguyên thủy của nó. Từ hình thức đồng diễn có xướng có xô, hò mái nhì trong sân khấu ca kịch thường chỉ là độc diễn, cho nên phần xô hoàn toàn biến mất, kết cấu 3 phần của hò cái cũng bị phá vỡ: phần mở đầu dường như mất hẳn, phần chính và phần kết không còn được phân biệt rạch ròi như xưa. Có thể nói rằng, hiện tượng chuyển cảnh (transcontextualization: sự thay đổi về môi trường diễn xướng) đã tạo nên một dị bản hò mái nhì khác để dùng trong sân khấu ca kịch.

Ngày nay, trong âm nhạc truyền thống Huế vẫn tồn tại song song hai dị bản hò mái nhì theo hai phong cách ca Huế và ca kịch. Dù có âm điệu như nhau nhưng chúng có kết cấu khác hẳn. Đây là một hiện tượng khá phổ biến trong đời sống âm nhạc nói riêng và văn hóa nói chung. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng do có nhiều điều kiện (khách quan và chủ quan) thích hợp hơn, nên hiện nay điệu hò mái nhì của sân khấu ca kịch cũng trở nên phổ biến hơn nhiều so với phong cách nguyên thủy của nó. Một số chương trình ca Huế phát trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc trình diễn hàng đêm cho khách du lịch đều dùng điệu hò mái nhì của sân khấu ca kịch, trong khi đó, cách hò nguyên thủy chỉ được một số nghệ nhân ít ỏi của trường phái ca Huế Thính phòng (như các cô Minh Mẫn, Thanh Hương, Vân Phi, Thanh Tâm) sử dụng. Nói cách khác, nó đang bị lấn lướt bởi cách diễn xướng mới, nếu không có một môi trường diễn xướng phù hợp thì e rằng điệu hò mái nhì nguyên thủy cũng sẽ mai một dần. Âu đó cũng là quy luật thường tình, song chúng ta cũng cần phải lưu giữ, phổ biến cả điệu hò nguyên thủy đi liền với sự tồn tại của điệu hò mái nhì ca kịch để làm phong phú thêm sự đa dạng trong hò Huế, từ cấu trúc nguyên thủy hò trên sông nước đến sự phát triển biến dị trên môi trường sân khấu ca kịch. Hãy cùng lắng nghe và suy ngẫm trong âm điệu hò mái nhì vang vọng chơi vơi:
Ơ hờ...
Gió vầm vập mưa lưng chừng nơi bể Bắc,
Hạt mưa rơi tinh tang tích tắc rỉ rắc trước hàng hiên.
Muốn lơ đi mà ngủ, e sợ ngủ không yên,
Sợ mai kia mưa già nước ngập không biết dựa con thuyền vào đâu.
                                                            (Khuyết danh)
                                                                                   
P.T.T
(177/11-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔN NỮ NGHI TRINHNói đến lối ăn Huế người ta nghĩ ngay đến cung cách ăn uống trong cung đình, vì Huế đã từng là thủ phủ của Đàng Trong từ thế kỷ XVII rồi trở thành kinh đô của cả nước từ thế kỷ XIX. Ngần nấy thế kỷ cũng đủ cho Huế trở thành một trung tâm chính trị và văn hóa, trong đó văn hóa ẩm thực giữ một vị trí quan trọng, mà những món ăn trong cung đình là sự chọn lựa tối ưu.

  • JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)

  • NGUYỄN QUANG HÀ                            Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".

  • XUÂN HUY        "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại        Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"

  • TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.

  • LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.

  • HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.

  • THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.

  • QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.

  • ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét:        Rõ ràng trong ngọc trắng ngà        Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên                                                        (Nguyễn Du)

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.

  • VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.

  • NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).

  • NGUYỄN QUANG SÁNG                                 Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.

  • TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…

  • HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.

  • NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...