Cấu trúc điệu hò mái nhì

09:44 17/06/2009
PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

Đối với nhiều người Việt Nam, nhất là người Huế, câu hò mái nhì trên đây đã trở nên quen thuộc. Không biết tự bao giờ, hò mái nhì đã trở thành làn điệu dân ca đặc trưng nhất của Huế. Mỗi khi nhắc đến thành phố nên thơ này, bên cạnh các đền đài, lăng tẩm cổ kính, người ta nghĩ ngay đến điệu hò mái nhì với âm điệu trầm mặc, trữ tình, sâu lắng, có lẽ do điệu hò này diễn tả được chân xác nhất chiều sâu tâm hồn của người dân xứ Huế giữa khung cảnh thơ mộng của miền núi Ngự sông Hương.

Cho đến nay, chưa có ai xác định được hò mái nhì ra đời từ bao giờ, nhưng môi trường sản sinh và phát triển của điệu hò này gắn liền với dòng sông Hương thơ mộng của xứ Huế là điều không ai có thể phủ nhận. Trước khi tình trạng cơ giới hóa diễn ra ở Huế, nghĩa là cách đây khoảng 50-60 năm, người ta vẫn nghe giai điệu của hò mái nhì vang vọng trên các con thuyền xuôi ngược sông Hương. Thuở ấy, các cô lái đò thường mượn làn điệu dân ca trữ tình này để bộc bạch nỗi niềm tâm sự chất chứa trong lòng, để vơi bớt cái mệt nhọc của tay chèo trên những quãng sông xa.

Đò từ Đông Ba đò qua Đập Đá,
Đò từ Vỹ Dạ, thẳng Ngã ba Sình.
Lờ đờ bóng ngã trăng chênh,
Tiếng hò xa vọng nhắn tình nước non.
                       (Ca dao)

Điệu hò có nhịp điệu tự do, chậm rãi, giai điệu nhẹ nhàng, êm ái cứ miên man, dàn trải, tỏa ra xa mãi, xa mãi trên mặt sông phẳng lặng. Những tiếng đệm hò, ơ... kéo dài tưởng như bất tận, cứ mãi níu kéo lòng người trong nỗi niềm tâm sự day dứt khôn nguôi...

Xét về lãnh vực văn học, hò mái nhì thường sử dụng các câu ca dao xứ Huế, về sau, còn có nhiều thi sĩ sáng tác các lời thơ cho điệu hò nổi tiếng này. Thông thường, lời hò được chia làm 2 phần. Phần đầu thường là một cặp thơ 7 chữ, 8 chữ,... với các lối biến thể rất tự do. Nội dung của phần này thường mang tính giới thiệu về không gian, cảnh vật (thường là ca ngợi cảnh sắc của xứ Huế) hoặc gợi mở ra ý nghĩa chủ đạo của toàn bài. Phần 2 luôn luôn là một cặp câu lục bát hoặc lục bát biến thể, thường mang tính tả tình. Đây chính là phần "mở nút" cho nội dung chính của toàn bài, nói lên tâm tình mà người hò muốn bộc lộ. Hai phần này gắn kết với nhau một cách logic và chặt chẽ, tạo nên một khối thống nhất cả về hình thức lẫn nội dung.

Trăng xứ Huế mơ màng màu sữa,
Nước sông Hương như dải lụa vuông dài
Cung đàn thánh thót nam ai,
Tiếng tơ não nuột khóc người ra đi.
                                                (Khuyết danh)
Hạt mưa rơi rơi mưa ngoài cánh cửa,
Mưa giữa chợ đời, mưa ở lòng tôi.
Gác tay nằm nghĩ sự đời,
Chán chê ngao ngán khóc cười dở dang.
                                                (Khuyết danh)

Tuy nhiên, từ cấu trúc văn học đến cấu trúc âm nhạc bao giờ cũng có một khoảng cách, dù ít dù nhiều. Đối với hò mái nhì, khoảng cách này càng đáng kể. Là một loại hình hát xướng đồng diễn, trong môi trường nguyên thủy của mình, hò mái nhì bao giờ cũng có người xướng, người , nghĩa là bên cạnh người hò chính (hò cái) còn có những người hò phụ họa (hò con). Hò cái diễn xướng nội dung chính của điệu hò, gọi là phần kể, hò con hò những đoạn phụ họa, gọi là phần xô. Mỗi khi hò cái dứt đoạn thì hò con đồng thanh cất giọng hò như một sự hưởng ứng, chia sẻ cảm thông với tâm sự của hò cái. Hãy thử phân tích cấu trúc âm nhạc của điệu hò mái nhì để thấy được hình thức cũng như tính chất đồng diễn, giao lưu của nó trong trình thức diễn xướng nguyên thủy. Ở đây, chúng tôi sử dụng băng tư liệu ghi lại giọng ca Huế đuợc xem là chính gốc, thuần chất của nghệ nhân Minh Mẫn với câu hò đặc trưng, quen thuộc nhất do cụ Ưng Bình sáng tác như đã nêu ở đầu bài viết này.

Trước tiên, hò cái xướng lên phần mở đầu với những tiếng đệm hò ơ kéo dài. Thực chất, ngôn ngữ văn học của phần mở đầu rất ngắn gọn, có khi chỉ cần đến vài từ, nhưng có tác dụng giới thiệu khái quát về câu hò sắp được trình bày. Thông thường, người ta lấy mấy chữ đầu của lời thơ, song cũng có khi hò cái chọn những ý hay và "đắt" ở giữa hoặc cuối lời thơ để xướng phần mở đầu.


Một điều đáng chú ý ở đây là người hò dùng thủ pháp đảo ngữ. Điều này thực ra hoàn toàn phụ thuộc vào thanh điệu của lời thơ. Sở dĩ người ta sử dụng thủ pháp này là vì phần mở đầu luôn kết bằng âm xàng (f) theo tuyến giai điệu từ xuống xàng (g - f), nên phần lời tương ứng phải là một từ có dấu huyền. Nếu từ này mang các thanh khác (ngang, sắc, hỏi, ngã, nặng) thì người ta không thể dùng âm xàng ngay được vì sẽ bị sai với quy tắc thanh điệu của tiếng Việt (trong trường hợp trên đây, chữ Văn Lâu sẽ thành ra Văn Lầu). Trong các trường hợp đó, hoặc người ta dùng thủ pháp đảo ngữ như trên để lấy từ cuối cùng có dấu huyền (từ chiều như trên đây) cho tương ứng với chữ xàng, hoặc người hò phải tiến hành về kết xàng một cách gián tiếp. Chẳng hạn, đối với từ có dấu sắc hoặc ngang, người ta phải dùng âm (thay vì âm xàng) rồi luyến nhanh xuống , sau đó luyến lên rồi trở về xàng và kết thúc ở đó như quy trình kết trực tiếp xê - xàng. Còn đối với các từ có dấu hỏi, ngã, nặng, do đều được phát âm ở âm vực thấp theo ngữ âm của tiếng Huế, chúng phải nhận âm xệ, hoặc cộng, sau đó luyến lên , lên rồi trở về xàng và kết ở nốt này. Để rõ hơn, xin xem vài ví dụ minh họa sau:


Trong các cách xử lý trên, nghệ nhân Minh Mẫn đã chọn cách thứ nhất (đảo ngữ), có lẽ do thủ pháp đảo ngữ tạo hứng thú hơn cho cả người hò lẫn người nghe. Tuy nhiên, sử dụng thủ pháp thứ hai (kết gián tiếp) vẫn được các nghệ nhân chấp nhận.
Khi hết phần mở đầu, hò cái dứt lời, thì ngay lập tức, hò con nhất loạt cùng xô:


Tiếp sau đoạn xô này là phần chính của điệu hò. Ở phần này, hò cái kể (diễn xướng) phần nội dung chính của bài với một giọng điệu ngâm ngợi tự do đầy chất tự sự. Hò cái phải chú ý ngắt câu sao cho bảo đảm được nội dung văn học của lời hò, nhưng cũng có lúc quy luật này bị phá vỡ để thực hiện sự ngập ngừng, day dứt trong nội dung của điệu hò:

Chiều chiều trước bến Văn Lâu/
Ai ngồi ai câu ai sầu ai thảm/
Ai thương ai cảm ai nhớ ai trông/
Thuyền ai thấp thoáng bên sông/
Đưa câu mái/mái đẩy chạnh lòng/

Phần chính của điệu hò kết thúc ở gần cuối lời hò, trước khi bước sang hai từ cuối của câu bát. Đến đây, hò cái tạm dứt lời, cũng có nghĩa là đã đến lúc hò con đồng thanh xô lên lần thứ hai:


                       hơ...                        ờ...         ơ...

Phần cuối của điệu hò là đoạn hò cái kể tiếp hai từ còn lại của lời hò, thường dùng thủ pháp đảo từ, lặp từ. Rồi điệu hò kết thúc bằng nốt xàng với tiếng đệm ơ ờ ngân dài, lan xa mãi như tan loãng vào không gian, để lại cho người nghe những âm hưởng dìu dặt vấn vương hoài không thôi.


               Ơ...            non  nước  ơ         non          ờ.......      ơ    

Như vậy, điệu hò mái nhì có kết cấu âm nhạc chặt chẽ, gồm 3 phần rõ rệt: phần mở đầu, phần chính và phần kết. Cả 3 phần này đều do một người hò cái lĩnh xướng, xen giữa chúng là 2 đoạn xô do hò con đồng xướng. Có thể lập thàh sơ đồ cấu trúc âm nhạc của điệu hò mái nhì như sau:

P. mở đầu Phần chính P. kết
hò cái hò con hò cái hò con  hò cái
                                                   

Với âm điệu trữ tình, trầm lắng, bâng khuâng, phản ánh được một cách sâu sắc tâm hồn của người dân xứ Huế; kết cấu âm nhạc chặt chẽ, được làm mềm bởi tính co giãn của nhịp điệu tự do, hò mái nhì đã nhanh chóng phổ biến khắp nơi và trở thành điệu hò đặc trưng nhất của xứ Huế. Từ môi trường dân gian, hò mái nhì đã sớm du nhập vào môi trường bác học ở bộ môn Ca nhạc Thính phòng của giới quý tộc Huế. Ở đây, hò mái nhì có thể dùng để kết hợp với các bài bản Nam của Ca Huế, thường là mở đầu cho các liên khúc: hò Mái nhì - Nam Ai - Nam Bình; hò Mái nhì - Nam Bình; hoặc hò mái nhì - Tương tư khúc... Trong môi trường này, nó càng có điều kiện được trau chuốt, gọt giũa, nâng cao về mặt nghệ thuật. Ở đây, nó được hát lên bởi những giọng ca mượt mà nhất, được làm giàu bởi nhiều lời thơ đẹp, mang ý nghĩa sâu sắc của các thi sĩ tài danh của vùng đất Kinh kỳ. Nhờ thế, hò mái nhì càng được bay cao, bay xa hơn trên nền trời nghệ thuật nước nhà. Và đến khi môi trường diễn xướng dân gian nguyên thủy của hò mái nhì không còn nữa do tác động của cuộc sống hiện đại thì môi trường Ca Huế là nơi tốt nhất có thể gìn giữ, nuôi dưỡng nó để điệu hò đặc sắc này còn tồn tại và lưu truyền đến ngày nay dưới những hình thức, tính chất nguyên vẹn nhất.

Bên cạnh đó, hò mái nhì còn được đưa vào sân khấu ca kịch Huế, khiến cho môi trường diễn xướng của nó càng được mở rộng. Nhưng, một điều cần chú ý là môi trưòng diễn xướng mới này khiến điệu hò mái nhì bị biến đối khá nhiều về mặt cấu trúc. Sân khấu là nơi mà các làn điệu, bài bản được vận dụng một cách hết sức linh hoạt, nên chúng thường phải cắt xén, kết nối khá tự do để phù hợp với tính kịch của sân khấu và với nội dung vở diễn. Do tính chất đặc thù đó, hò mái nhì, khi được đưa lên môi trường sân khấu ca kịch, đã không còn giữ được cấu trúc nguyên thủy của nó. Từ hình thức đồng diễn có xướng có xô, hò mái nhì trong sân khấu ca kịch thường chỉ là độc diễn, cho nên phần xô hoàn toàn biến mất, kết cấu 3 phần của hò cái cũng bị phá vỡ: phần mở đầu dường như mất hẳn, phần chính và phần kết không còn được phân biệt rạch ròi như xưa. Có thể nói rằng, hiện tượng chuyển cảnh (transcontextualization: sự thay đổi về môi trường diễn xướng) đã tạo nên một dị bản hò mái nhì khác để dùng trong sân khấu ca kịch.

Ngày nay, trong âm nhạc truyền thống Huế vẫn tồn tại song song hai dị bản hò mái nhì theo hai phong cách ca Huế và ca kịch. Dù có âm điệu như nhau nhưng chúng có kết cấu khác hẳn. Đây là một hiện tượng khá phổ biến trong đời sống âm nhạc nói riêng và văn hóa nói chung. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng do có nhiều điều kiện (khách quan và chủ quan) thích hợp hơn, nên hiện nay điệu hò mái nhì của sân khấu ca kịch cũng trở nên phổ biến hơn nhiều so với phong cách nguyên thủy của nó. Một số chương trình ca Huế phát trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc trình diễn hàng đêm cho khách du lịch đều dùng điệu hò mái nhì của sân khấu ca kịch, trong khi đó, cách hò nguyên thủy chỉ được một số nghệ nhân ít ỏi của trường phái ca Huế Thính phòng (như các cô Minh Mẫn, Thanh Hương, Vân Phi, Thanh Tâm) sử dụng. Nói cách khác, nó đang bị lấn lướt bởi cách diễn xướng mới, nếu không có một môi trường diễn xướng phù hợp thì e rằng điệu hò mái nhì nguyên thủy cũng sẽ mai một dần. Âu đó cũng là quy luật thường tình, song chúng ta cũng cần phải lưu giữ, phổ biến cả điệu hò nguyên thủy đi liền với sự tồn tại của điệu hò mái nhì ca kịch để làm phong phú thêm sự đa dạng trong hò Huế, từ cấu trúc nguyên thủy hò trên sông nước đến sự phát triển biến dị trên môi trường sân khấu ca kịch. Hãy cùng lắng nghe và suy ngẫm trong âm điệu hò mái nhì vang vọng chơi vơi:
Ơ hờ...
Gió vầm vập mưa lưng chừng nơi bể Bắc,
Hạt mưa rơi tinh tang tích tắc rỉ rắc trước hàng hiên.
Muốn lơ đi mà ngủ, e sợ ngủ không yên,
Sợ mai kia mưa già nước ngập không biết dựa con thuyền vào đâu.
                                                            (Khuyết danh)
                                                                                   
P.T.T
(177/11-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MẶC KHÁCHHuế nguyên là đất đế đô, nơi sinh trưởng của vua chúa, chốn triều đình quan lại, đa số tao nhân mặc khách đều tụ họp về đây. Do đó mà tiếng nói của xứ Huế, trang nhã thanh tao, có khi lại nặng mùi “bề trên” hoặc kiểu cách đến buồn cười.

  • NGUYỄN HỮU ĐÍNHMột nhà văn tên tuổi địa phương - địa phương nhưng kiêm cả Trung ương - đã say sưa mô tả con sông Hương, với một đầu đề trớ trêu và duyên dáng: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” Trớ trêu và duyên dáng hơn nữa là nêu lên câu hỏi mà không chịu trả lời.

  • THÁI DOÃN LONGKính tặng thầy: Cao Xuân Hưởng, Nguyễn Trực Luyện và H.N

  • VÂN LONGHuế đã vào tôi từ thuở thiếu thời qua hai câu thơ của Nam Trân:                Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng                Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo

  • PHAN THUẬN ANCó một bãi đất trống nằm giữa Ngọ Môn và Kỳ Đài. Nói chính xác hơn, không gian ấy được giới hạn bởi đường 23 tháng 8 ở phía bắc, chân tường Kinh thành ở phía nam, con đường ngắn sau cửa Thể Nhân (thường gọi là cửa Ngăn) ở phía đông và con đường ngắn sau cửa Quảng Đức ở phía tây. Chiều bắc nam của nó rộng gần 125m và chiều đông tây dài khoảng 360m.

  • HỒ VĨNHTôi đứng trên sân thượng Sài Gòn- Morin Huế, nhìn lên phía Tây thành phố trong buổi chiều tà le lói vài tia nắng trên các tán lá rất cao. Nhìn về phía Bắc sông Hương, Thành nội cổ kính chìm trong cây xanh.

  • NGUYỄN THANH HÙNGTôi chưa biết Huế nên buồn vì bỏ qua một vẻ đẹp. Buồn vì mãi mãi không thể chiêm ngưỡng cố đô của đất nước một thời ngang ngửa. Một khoảng trống văn hóa về cổ vật kiến trúc nguyên vẹn của tịnh đô Huế không thể lấp đầy trong tôi, luôn tin tưởng vào sự hữu linh của vạn vật.

  • NGUYỄN TRỌNG HUẤN(Nhân xem “Huế - đất mẹ của tôi” sách ảnh của Đào Hoa Nữ. Nhớ Huế, suy ngẫm và…. cảm nhận)

  • TRƯƠNG THỊ THUYẾT1. Huế không chỉ nổi tiếng là một thành phố đẹp, nên thơ với những danh lam thắng cảnh như sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên Mụ và những lăng tẩm cổ kính...mà còn được du khách biết đến bởi những nghề truyền thống của mình.

  • LÊ THỊ KIỀU HẠNHHiếm có một vùng đất nào trên thế giới mà con người đã tạo ra một bản sắc văn hóa độc đáo như kiểu nhà vườn Huế.

  • DĨNH QUỐC ANHLăng tẩm Huế là một trong những thành tựu rực rỡ bậc nhất của kiến trúc văn hóa cổ Việt Nam. Ngoài 8 lăng chính của các vua Gia Long, Minh Mạng,Thiệu Trị, Tự Đức, Dục Đức, Kiến Phúc, Đồng Khánh, Khải Định, còn có đến hàng ngàn ngôi mộ tồn tại qua nhiều thế kỷ của các bậc danh nhân văn hóa, người có công với đất nước.

  • LÊ VIẾT XUÂNCó thể nói, so với các Bảo tàng và Di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh toàn quốc, thì Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên - Huế có một vị trí quan trọng, sau khu Di tích Kim Liên (Nghệ An), khu Di tích Pác-Bó (Cao Bằng), khu Di tích Phủ Chủ tịch và Bảo tàng Hồ Chí Minh Hà Nội.

  • BẢO ĐÀN 1. Đặt vấn đề1.1. Như một sự ngẫu nhiên của lịch sử, xứ Huế - từ vùng đất biên viễn quốc gia trong nhiều thế kỷ, trở thành thủ phủ của vùng miền và là kinh đô của một quốc gia thống nhất sau đó. Đây chính là nền tảng thuận lợi để vùng đất này hội tụ, quy tập cho mình một hệ thống làng nghề thủ công, cần thiết cho sự tồn tại và làm tròn vai trò của một vùng trung tâm.

  • BỬU Ý28 Tháng Hai lại về, gợi nhớ về sinh nhật của Trịnh Công Sơn. Vào thời điểm này, bạn bè Trịnh Công Sơn ở Huế và Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế đang chuẩn bị cho Nhà lưu niệm Trịnh Công Sơn theo chủ trương của UBND tỉnh và mong muốn của những người yêu mến nhạc sĩ tài hoa này.Sông Hương xin giới thiệu bài viết của Bửu Ý- người bạn rất gắn bó với Trịnh Công Sơn - như một gợi ý mời gọi bạn bè cùng góp ý để sớm hình thành ý nguyện này.

  • THANH TÙNGNhững dịp lễ hội, những chiều hè gió lộng và đẹp trời, trên bầu trời cố đô Huế rực rỡ đủ sắc màu của những cánh diều mượt mà trong hình dáng các loài chim, thú: long, lân, ly, phụng, công, bướm, quạ. Đặc sắc nhất thì diều đại bàng cứu công chua, diều bướm đốt pháo, diều Tôn Ngộ Không...

  • NGUYỄN QUANG HÀCả khung trời hồng dần lên. Sóng Tam Giang lấp lánh hồng. Con thuyền của chúng tôi như rẽ bình minh đi thẳng đến mặt trời. Bầy chim trời đang ăn trên mặt phá, gặp động, chúng rào rào vỗ cánh vù bay lên, rợp trời, như một đám mây, rồi lại rào rào hạ cánh đáp xuống phía phá bên kia.

  • TRƯƠNG THỊ THUYẾTĂn là một biểu hiện của văn hóa. Nghiên cứu nhóm từ chỉ cách ăn uống, chỉ các món ăn của Huế là tìm ra những nét riêng biệt trong sắc thái văn hóa Huế.

  • THANH TÙNGVăn hoá tâm linh là một loại hình văn hoá tinh thần đặc thù của nhiều dân tộc trên thế giới. Với người Việt, từ xưa đến nay văn hóa tâm linh thể hiện ở tình cảm linh thiêng, ở niềm tin và sự tri ân của mọi người đối với những người thân đã mất, niềm tin của cả cộng đồng đối với những vị anh hùng, các bậc tiền bối đã có công lao xây dựng, bảo vệ đất nước; các vị tiền hiền được tôn làm Thần - Thánh, Thành hoàng; thể hiện sự kính trọng và cầu mong sự che chở của các vị thiên thần v.v…

  • TRẦN HÀ TRUNGCứ mỗi lần nghe tiếng trống vang khắp nước, nhất là ở Đống Đa lịch sử (mồng năm tháng giêng) lòng tôi rộn ràng từ những ngày bé nhỏ.

  • HỒ VĨNH       Phóng sựTôi đứng trên nhà bia lăng Minh Mạng thì nghe kiến trúc sư Kazimierz Kwiatkowski (Kazik) đột ngột qua đời vì bệnh tim. Tôi bàng hoàng lặng người trong giây lát rồi đạp xe về Thế Miếu nơi công trình Kazik đang trùng tu.