Câu chuyện lao động của người trí thức (*)

17:10 08/09/2008
PHONG LÊViệc xác định một đề tài nghiên cứu cho bất cứ ai bước vào con đường khoa học, theo tôi là động tác quan trọng đầu tiên, có ý nghĩa quyết định, như là một ô cửa, một đột phá khẩu trổ ra cái bầu trời, hoặc quang đãng hoặc vần vụ mưa gió, rồi anh ta sẽ được bay lượn ở trong đó.

Từ thành công của một đề tài, một luận án được hướng dẫn chu đáo và được thực hiện nghiêm chỉnh, người tập sự trẻ sẽ có một tư thế, một điểm tựa cho sự tiếp tục và thúc đẩy các mục tiêu từng bước, từ nhỏ đến lớn, từ hẹp đến rộng, con đường khoa học còn rất dài dặc ở phía trước.
Cố nhiên, hành trình đường đời còn đầy các biến cố, các sự kiện, các bước ngoặt mà không tuyệt đối tuân theo các định lệ mang tính tất nhiên, không lệ thuộc vào các động lực ban đầu. Câu chuyện này quả là còn dài, đủ cho hàng pho truyện mà tôi không có ý định dông dài lạm bàn ở đây.
Tôi chỉ muốn trở lại một ý: Yêu cầu chiếm lĩnh một đề tài, lớn hoặc nhỏ, ở tư cách người khai phá, người khám phá, dẫu chỉ nhích hơn, nhỉnh hơn người trước một chút, đó chính là mục tiêu của người làm khoa học, và theo tôi, đây cũng chính là mô hình chung cho mọi tìm tòi khoa học của người nghiên cứu, trên con đường vươn tới tư cách chuyên gia.
Là chuyên gia trong lĩnh vực khoa học cụ thể nào đó - nếu đúng là chuyên gia thực chất, chuyên gia thứ thiệt, được xã hội công nhận, thì tiếng nói của anh (qua giảng, nói, viết; qua việc thực hiện các đề tài lớn nhỏ) sẽ là tiếng nói có thẩm quyền. Tất nhiên quyền năng học thuật có khác với quyền năng hành chính. Mặt khác, quyền năng đó cũng không thể là tuyệt đối - một lần cho mãi mãi. Bởi bể học là không cùng. Và con đường khoa học là mở ra vô tận. Có thể tư cách chuyên gia ấy sẽ mất dần, khi anh ta hết khả năng tiếp cận với cái mới; khi quy luật tiếp nối, quy luật phủ định của phủ định phát huy tác dụng - một lớp người mới đã đủ sức thay thế và vượt lên.
Xét rộng ra thì khoa học đích thực phải luôn luôn chấp nhận sự tranh cãi, sự bác bỏ. Phải trong tranh cãi, trong nguy cơ bị bác bỏ mà mài sắc chính khả năng và chất lượng khoa học của người có tư cách chuyên gia. Không kể sự phát triển của khoa học cần đến nhiều trường phái, nhiều khuynh hướng, chứ không thể là độc quyền của cá nhân nào nhóm phái nào.
Yêu cầu về sự tồn tại của các xu hướng, trường phái trong khoa học, trong văn chương - học thuật, tôi nêu như một lý thuyết của sự phát triển, hoặc như một ao ước cho tương lai. Còn thực tiễn, thì lại chưa phải lúc tìm được sự lạc quan và thật sự yên tâm trong câu chuyện này.

Nói về công tác nghiên cứu khoa học là nói về một dạng lao động riêng - nó là lao động trí óc, lao động của người trí thức. Tức là lớp người lao động bằng các ý tưởng, và nhằm tạo nên các ý tưởng, theo cách hiểu của nhà xã hội học Pháp Edgar Morin.
Kiểu lao động nghề nghiệp thuần tuý bằng các ý tưởng và nhằm mục tiêu cao nhất là tạo nên các ý tưởng, dứt khoát không phải là thứ lao động tạo ra của cải vật chất cụ thể cho con người phấn chấn, vui mừng. Trái lại, đó là loại lao động trừu tượng, nhằm hướng tới một khái quát lý luận, trên sự theo đuổi trường kỳ và nhẫn nại của tri thức, chứ không tuỳ thuộc chủ yếu vào cảm hứng xuất sáo, bất thần. Tôi hình dung lao động của người nghiên cứu khoa học là thuộc dạng đó, dạng của con ong, cái kiến, chứ không phải dạng con bướm "liệng vành mà chơi". Và tôi hiểu vì sao con số những người nghiên cứu có tư chất học giả ở ta còn là rất ít ỏi, rất hiếm hoi vào bất cứ thời nào. Bởi con đường họ theo đuổi là con đường của trí thức được tích luỹ và tiêu hoá, tức là con đường của học vấn; lại đồng thời là con đường vận hành ráo riết của tư duy trừu tượng. Phải như vậy họ mới nhìn được các mô hình cho sự phát triển, và đưa con người vào các phát kiến để nhận thức và làm thay đổi thế giới, trong đó có thế giới khoa học và nghệ thuật.

Cuối cùng, năng lượng của trí thức, của trí tuệ bất cứ thuộc dạng nào cũng phải được thể hiện vào các sản phẩm cụ thể. Đó là các công trình, các chuyên đề, các bài nói - giảng, và viết. Tất cả, tách riêng ra hoặc gắn với nhau đều nhằm vào sự phong phú và đổi mới thế giới tinh thần và trí tuệ con người.
Viếtnói, "trước thư" và "lập ngôn" trong hiện thực các chuyên đề, các đề tài - đó là chuyện ai mà chẳng có thể làm, ai mà chẳng làm hàng ngày, tựa như ông Jourdain trong kịch của Molière, hàng ngày vẫn thường xuyên "sáng tác" văn xuôi mà ông không tự biết! Thế nhưng, ở tư cách người trí thức, đó là sự chứa đựng mọi khổ công, mọi đam mê, mọi bền bỉ tu luyện, đến có thể vắt kiệt mình. Để bù lại, nó chính là nguồn vui, là hạnh phúc. Nguồn vui của sự chiếm lĩnh - đầu vào; và sau đó là nguồn vui dâng hiến - đầu ra. Cũng đã từ lâu tôi luôn có niềm say mê tìm đến các bậc thầy, trong đó Nguyễn Hiến Lê là một trong các tấm gương cho mình noi theo. Và cái kinh nghiệm ông rút ra, thật xác đáng: Muốn hiểu, muốn nắm thật vững một vấn đề gì đó thì hãy viết (hoặc nói, nếu như không tiện viết hoặc không muốn viết - tôi xin phép được bổ sung) về chính nó.
P.L

(nguồn: TCSH số 165 - 11 - 2002)

 


---------------------
(*) Từ góc độ một người nghiên cứu khoa học xã hội

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG SĨ NGUYÊN Hồi học Đại học, tôi và mấy đứa bạn phải đi bộ năm, sáu cây số vòng quanh các hiệu sách thành phố để tìm mua cho được cuốn "Thơ và mấy vần đề trong thơ Việt nam hiện đại" (Hà Minh Đức, NXB KHXH, 1994).

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong cuốn sách dịch, đúng hơn là trích dịch Những vấn đề thi pháp Đoxtoiepxki của M.M Bakhtin, chúng tôi đã giới thiệu những lời đánh giá quan trọng của các học giả thế kỷ XX đối với Bakhtin: "Bakhtin, nhà lý luận văn học lớn nhất của thế kỷ XX" (TS. Todorov). "Bakhtin, người giữ cho các khoa học nhân văn đối tượng riêng của chúng" (X.X. Avêzinxép), "Bakhtin, người đem lại một quan niệm hoàn toàn mới về ngôn từ tiểu thuyết" (A. Tritrêrin)...

  • ĐỖ LAI THUÝNgàn mây tràng giang buồn muôn đời                                 Nguyễn Xuân Sanh

  • VŨ QUẦN PHƯƠNGTên thật cũng là bút danh, sinh ngày 18-9-1949 tại quê gốc huyện Lệ Thuỷ, Quảng Bình.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một số lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60-70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • HỒ TIỂU NGỌCLTS: Nhân dịp kỷ niệm 53 năm Quốc khánh nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài thơ sau đây của tác giả Đoàn Duy Thành. Bài thơ thể hiện tình hữu nghị cao quý của nhân dân hai nước Việt - Trung.

  • HỒNG NHU            (Tham luận tại Hội nghị Văn học Miền Trung lần thứ II tháng 9-2002) LTS: Hội nghị văn học miền Trung lần thứ hai vừa diễn ra tại thị xã Sầm Sơn, Thanh Hoá trong 2 ngày 19 và 20 tháng 9 năm 2002. Gần 80 nhà văn của 18 tỉnh thành từ Bình Thuận đến Thanh Hoá đã về dự. Ngoài ra còn có đại diện các hội đồng chuyên môn, các ban công tác, các cơ quan báo chí xuất bản của Hội Nhà văn Việt cũng có mặt trong cuộc hội ngộ này.

  • THÁI BÁ LỢIMột nhà văn lớp đàn anh của tôi tâm sự: Chỉ có miền Trung mới có văn xuôi thôi, vì ở đây từ đất đai, khí hậu con người luôn luôn được thử thách, được cọ xát, được tôi rèn, với hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy mới bật ra tư tưởng, mà văn xuôi là tư tưởng.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Không nhà thơ nào muốn lặp lại những gì thơ ca đã có, kể cả lặp lại chính mình. Đi tìm cái lạ cái mới, chính là bản chất của sáng tạo.

  • NGUYỄN QUANG HÀHình như trong máu của người Việt đều có một chút máu thi nhân. Cho nên thấy ai cũng mê thơ cả. Chả thế mà tít mãi vùng hẻo lánh, các bà mẹ ru con bằng Kiều, bằng ca dao. Lời ru giống như một sự ngẫu hứng, cứ thế tự trào ra từ tâm hồn mình.

  • TRẦN THANH ĐẠMNgày13 tháng 06 năm 2002 vừa qua là dịp kỷ niệm lần thứ 75 ngày mất của một trong những nhà yêu nước và cách mạng tiền bối, một nhà giáo dục lớn của nước ta đầu thế kỷ XX: chí sĩ Lương Văn Can (1854-1927).

  • LÊ HỒNG SÂM Cách đây mươi năm, trong một cuộc phỏng vấn thân mật, chị Lộc Phương Thuỷ có hỏi tôi về những kỷ niệm đáng nhớ, liên quan đến văn học, nhất là văn học Pháp. Tôi đã kể cho chị Thuỷ mẩu chuyện nhỏ mà hôm nay tôi xin thuật lại, dưới tiêu đề phù hợp với một trong hai nội dung của hội thảo Fantine, Cosette và chiếc đòn gánh Việt .

  • HỒNG NHULTS: Những cuộc trao đổi mang tính nghề nghiệp về thơ ở tầm "vĩ mô" dường như đang co lại ở tầm "vi mô". Các ý kiến khác nhau, thậm chí ngược nhau trong tranh luận học thuật là chuyện bình thường. Song, sẽ không bình thường khi công cuộc đổi mới của Đảng đã bước vào nền kinh tế tri thức mà vẫn còn những "tư duy thơ" theo cơ chế suy diễn với những mục đích gì đó, ngoài thơ.Nhằm rộng đường dư luận, Sông Hương xin được trao đổi lại một trường hợp cụ thể sau đây.

  • MAI VĂN HOANỞ Huế tôi đã có nghe bạn bè nói sơ qua về cuộc hội thảo tập thơ "Đám mây lơ lửng" của Hoàng Vũ Thuật, tác phẩm đoạt giải A giải thưởng VH-NT Lưu Trọng Lư lần thứ hai (1996 - 2000) do Hội Văn nghệ Quảng Bình tổ chức.

  • ĐÀO DUY HIỆP“Đi tìm thời gian đã mất” của Marcel Proust (1871-1922) là một tiểu thuyết đồ sộ gồm bảy tập với trên dưới ba nghìn trang ngày nay đã được độc giả toàn thế giới say sưa đón đọc và được nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu đánh giá rất cao.

  • THÁI THU LANThông thường, mỗi văn nhân nghệ sĩ đều có nỗi đau đời, nỗi đau nhân thế. Nỗi đau này băt nguồn từ tấm lòng nhân ái và ý thức trách nhiệm của người nghệ sĩ trước cuộc sống và số phận con người qua những biến động của xã hội.

  • HOÀNG QUẢNG UYÊNTôi yêu mến và quý trọng những câu thơ như là "không thơ" của chị:Câu thơ nước chảy bèo trôi/ Vẫn nghiêng về phía phận đời khổ đau. (Hương cỏ)

  • FRANÇOIS JULLIEN                                        LTS: Hạ tuần tháng tư năm 2001, nhà triết học F.Jullien đến thăm Hà Nội nhân dịp lần đầu tiên công trình của ông được giới thiệu ở Việt Nam trong văn bản tiếng Việt (Xác lập cơ sở cho đạo đức- N.x.b Đà Nẵng, 2000). Cuối năm nay sẽ được xuất bản bản dịch công trình Bàn về tính hiệu quả ( F.Jullien. Traité de l’efficacité.Grasset, 1997). Sau đây là bản dịch chương III của tác phẩm này (do khuôn khổ của tạp chí, có lược đi một số đoạn). Nhan đề do chúng tôi đặt. Trong bài, số thiên đơn thuần (chẳng hạn th.81) là số thiên trong sách Đạo Đức Kinh còn gọi là sách Lão tử.

  • NGÔ MINH Tôi quen biết với anh Tường hơn 25 năm nay ở Huế như một người bạn vong niên thân thiết. Trong máy tính của tôi còn lưu trữ bài Anh Tường ơi viết từ năm 1998, gần 3000 chữ chưa công bố. Đó là bài viết mà nhà văn Nguyễn Quang Hà, Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương lúc đó, bảo tôi viết, sau chuyến chúng tôi đi thăm anh Tường bị trọng bệnh đang nằm hôn mê ở Bệnh viện Đà Nẵng về.

  • HỒ THẾ HÀHoàng Phủ Ngọc Tường dấn thân vào nghiệp bút nghiên bằng thơ cùng những năm tháng "hát cho đồng bào tôi nghe" sục sôi nhiệt huyết đấu tranh chống thù và ước mơ hòa bình trên quê mẹ Việt yêu dấu.