(Tản mạn về tiểu thuyết Con chim Joong bay từ A đến Z, Đỗ Tiến Thụy, Nxb Trẻ, 2017)
Từ Màu rừng ruộng (2006) đến Con chim Joong bay từ A đến Z (2017), tôi nghĩ, Đỗ Tiến Thụy đã thực sự vạch một lối nẻo tiểu thuyết để không lặp lại mình - một điều tối kị trong sáng tạo văn chương.
Do có điều kiện theo sát sáng tác của Đỗ Tiến Thụy, tôi thấy cây bút 7X “cứng cựa” này đã có sự nỗ lực thoát dần khỏi tinh thần “nệ thực” khi viết. Nếu Màu rừng ruộng có cái vẻ lấm láp của nó như luống cày vừa vỡ, thì Con chim Joong bay từ A đến Z giống bức tranh của một họa sĩ đã qua trường lớp bài bản. Nhưng không vẽ theo truyền thống, lấy cái “giống như thật” làm nguyên tắc, lấy cái “tuyến tính” làm trụ cột cho mọi diễn tiến sự kiện, tác giả vẽ theo tinh thần và phương pháp “lập thể” của hội họa.
Ít nhất thì có ba khối nguyên liệu, chất liệu được vò nhuyễn trong tiểu thuyết. Khối thứ nhất khi người đọc “bay” theo con chim Joong. Lâu nay người đọc hay bị “dắt mũi” bởi một người kể chuyện “toàn tri”, thành thử rơi vào thế bị động. Lần này thì khác hẳn. Cái món “chim kể” này của Đỗ Tiến Thụy là một cách mở rộng biên độ quan sát và tái hiện. Con chim Joong xưng “tôi” hẳn hoi. Nó như là thành viên của gia đình Cụ Chủ, dù đã có lúc người ta muốn vứt, thải loại nó. Nó nắm giữ rất nhiều bí mật của đại gia đình Cụ Chủ (một vị tướng lừng danh về hưu nhưng vẫn muốn là một “thái thượng hoàng”, giữ vai trò “nhiếp chính” cả trong nhà mình và cả trong tầm quốc gia). Một gia đình kiểu “tam đại đồng đường” (Cụ Chủ, Ông/ Bà Chủ, Cậu Chủ). Joong vì “ở trong chăn nên biết chăn có rận”. Joong biết rõ đến tận “chân tơ kẽ tóc” cái gia đình đầy bi kịch này. Nhìn một gia đình thì biết cả xã hội. Cụ Chủ đại diện cho thế hệ “cần - kiệm - liêm - chính - chí công - vô tư”. Ông hiểu được cái giá của “máu người không phải nước lã” do có nhiều năm cầm quân nơi chiến địa khốc liệt. Ông là người anh hùng trong trận mạc cả theo nghĩa đen và nghĩa rộng của từ. Nhưng trong hòa bình, đời thường, ông lại bị “trói chân trói tay”. Con gái ông (Nga) là người đàn bà thép, tham quyền cố vị; con rể ông (Khoa) là người thiện tâm nhưng bất lực trong mọi chuyện của đời sống riêng tư và xã hội; cháu ông (Cậu Gấu), kẻ lọc lõi trước tuổi, kẻ rạch giời rơi xuống, kẻ phá tán đều không phải là tri âm tri kỉ cùng ông trong thời buổi lên ngôi của quyền lực và đồng tiền. Cái chết của ông chứa đầy những bí mật. Ông ra đi trong cô đơn và nặng trĩu những món nợ trần thế. Nhưng sống như con rể (là đồng đội của ông) thì cũng bế tắc, cô đơn và cũng không thoát khỏi thiên la địa võng của quyền lực và tiền tài. Theo chân con chim Joong, người đọc lạc vào một mê lộ của đời sống bát nháo, đầy rẫy cạm bẫy, suy vi đạo lí được kiến tạo trên cơ sở của cái vô nghĩa lí. Nói không quá thì, Con chim Joong bay từ A đến Z là một cuốn tiểu thuyết về gia đình thời hiện đại. Nhưng không phải là kiểu “gia đình bé mọn” mà là kiểu “gia đình tan rữa” khi con người bị băm vằm ra như cách nhà thơ Việt Phương đã viết trong bài thơ độc đáo NƠI GỪ (chữ NGƯỜI bị xé ra), cách nay hơn bốn mươi năm.
Khối nguyên liệu thứ hai là chiến tranh qua câu chuyện của khẩu súng đại liên, cũng một mực ngang nhiên xưng “tôi”, tạo nên một mạch truyện khác. Chiến tranh muôn thuở là cảnh đầu rơi máu chảy, chẳng ai mong muốn, họa là kẻ điên khùng. Những trang viết về chiến tranh đọc hấp dẫn dẫu cho tác giả đôi khi hơi lạnh lùng và “tàn nhẫn”, dẫu cho tác giả không trực tiếp trải qua trận mạc nhưng vốn sống gián tiếp đã giúp anh viết như một người trải nghiệm. Trong trường hợp này, tôi nghĩ, anh cố gắng viết bằng trải nghiệm văn hóa. Cũng là vì anh có cái nhiệt hứng của người lính, muốn nhìn chiến tranh từ nhiều góc độ (từ người Mĩ - người Hàn Quốc - người Việt), từ nhiều thế hệ (ông - con - cháu), từ nhiều giai tầng xã hội (giàu có - trung lưu - nghèo khó). Dĩ nhiên Con chim Joong bay từ A đến Z không phải là cuốn tiểu thuyết chiến tranh theo đúng nghĩa đen của nó. Dư âm của chiến tranh, hậu quả của chiến tranh ăn vào mỗi con người như thế nào, bằng cách nào? Dường như trên mảnh đất này hơn bốn mươi năm qua không ai thoát ra khỏi chiến tranh một cách triệt để (!?). Hình ảnh khẩu súng đại liên còn đi theo Cậu Chủ lên miền sơn cước (có người cho đó là hình ảnh về một trò chơi của bọn trọc phú), nhưng tôi nghĩ, nó như một cảnh báo về việc vẫn còn bọn “lái súng”, vẫn còn bọn người muốn ngửi mùi máu và tử thi. Nghĩa là chiến tranh vẫn luôn là một mối hiểm họa khôn lường, lơ lửng trên đầu nhân loại. Khẩu đại liên tạo nên một gam màu tối, màu lạnh như màu thần chết (?!). Cái miệng khát máu của chiến tranh vẫn ngoác ra ở cuối cuốn tiểu thuyết “Lửa súng bỏng hực át ánh trăng mát lành. Tiếng nổ thổi bay cả gió, thổi bạt cả mây. Tiếng đạn rú rít như một chuỗi sét phóng thẳng vào nơi tôi đang bị xích”.
Khối nguyên liệu thứ ba là những gì mong manh sót lại có thể cứu rỗi con người - hoặc là thiên nhiên đang từng ngày bị cưỡng bức, tàn phá. Họ, hoặc là con người của miền rừng núi hay thôn quê, tuy có vẻ hoang dã nhưng đó là những gì sót lại của cái tốt, đẹp, cái nguyên sơ hồng hoang (qua nhân vật Y Linh) hoặc là ở tận “dưới đáy” xã hội như người phụ nữ làm tạp vụ. Đọc Con chim Joong bay từ A đến Z, riêng tôi vẫn cứ như váng vất cái “màu rừng ruộng” (qua các “nhân vật” như Ỉn, Joong, Y Linh, Xoan, người phụ nữ làm tạp vụ, lão Bẩm,…). Nhưng tôi cứ vân vi một nỗi, cái khối nguyên liệu thứ ba này, nếu tác giả chú tâm khai thác kĩ hơn thì tiểu thuyết sẽ sâu hơn, thâm hậu hơn. Là vì, phần sau của tác phẩm có chuyện Cậu Gấu về rừng làm nhiều việc “kinh thiên động địa”. Ông Chủ sau khi viết đơn từ chối cái ghế Bộ trưởng chỉ còn nghĩ về những gì liên quan đến “màu rừng ruộng” (khi rửa tay gác kiếm sẽ về quê ở). Phải chăng cái gốc gác, cái văn hóa cội rễ của người Việt là ở nơi chốn rừng ruộng? Phải chăng cái khối nguyên sơ này hiển hiện trong các nhân vật Xoan (giúp việc cho nhà Cụ Chủ, bị Cậu Gấu phá đời con gái), ông Trưởng (thông gia với Cụ Chủ), lão Bẩm… Mỗi nhà văn đều có sở trường sở đoản. Cái khó nhất trong thực hành viết là không biến cái này thành cái kia và ngược lại.
Một tác phẩm văn chương thành công, tôi nghĩ, thường đa chủ đề. Nhưng phải có một “chủ âm”. Trường đoạn Cụ Chủ về thăm ông thông gia, cuộc rượu ở quê và cuộc đối thoại về thời cuộc giữa vị tướng về hưu và những người bình dân đã như quả bộc phá làm nổ tung cái lô cốt cuối cùng. Không hề có một “lực lượng thù địch” nào phá hoại từ bên ngoài cả. Chỉ nhỡn tiền chúng ta tự phá hoại. Ngoại xâm nay không còn nguy hiểm bằng nội xâm. Nhưng có vẻ như hơi lộ. Lộ vì thẳng băng quá (dẫu cho tác giả đã khéo léo gắn những phát ngôn ấy theo cách “rượu vào lời ra” cho những người có vẻ say). Trường đoạn Cụ Chủ chứng kiến con gái thành lập công ti để có nơi chốn giao thiệp, để có không gian hối lộ, theo tôi, là một tình tiết điển hình, là một ngọn roi quất thẳng vào “một bộ phận không nhỏ”, “một bầy sâu” đang đục khoét, làm mục ruỗng, đảo lộn xã hội. Đọc tiểu thuyết đương đại Việt cũng nhiều, có lẽ tôi chưa thấy cái cảnh nào ô trọc đến như thế. Nhớ lại tiểu thuyết Bước đường cùng của nhà văn Nguyễn Công Hoan, có hình ảnh ông quan huyện ngày trước giơ tay vét vào cái đĩa rồi trả lại lá đơn kêu oan của thằng dân đen, nếu so với ngày nay mới thấy, nói như ngôn ngữ tuổi teen thì, chuyện “nhỏ như con thỏ” (!?).
Cảm hứng đương đại về “cái chưa hoàn tất” sặc mùi ẩm mốc xen kẽ khê nồng mùi thuốc súng dội về từ quá vãng khiến cho Con chim Joong bay từ A đến Z có cái nhịp điệu (rythme) sôi nổi, khẩn trương, quyết liệt, dấn tới. Đọc “cái” mới này của Đỗ Tiến Thụy phải theo kiểu đọc truyện ngắn - một mạch, tức thì, nhanh tới đích để lưu giữ ấn tượng. Tôi rất chú ý đến lối kiến tạo câu văn trong tiểu thuyết mới của Đỗ Tiến Thụy. Câu văn ngắn tạo tốc độ (câu ngắn nhất chỉ một chữ, nhiều câu bốn/ năm/ sáu/ bảy chữ, câu dài nhất hai mươi chữ). Vì sao anh viết ngắn? Viết ngắn không phải vì nghĩ ngắn. Mà vì nghĩ dài. Nhưng muốn chuyển tải ý tưởng có hiệu quả nhất đến độc giả thời nay vốn thông minh, nhưng khó tính, chưa kể đôi khi rất… đỏng đảnh thì phải biết cách tiết kiệm tối đa. Cũng có ý kiến cho rằng Đỗ Tiến Thụy trong tiểu thuyết này mới chỉ chú ý đến “chuyện” còn chưa chú ý đến kĩ thuật viết. Tôi không nghĩ như thế. Hai mươi sáu chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Việt được điều động để tổ chức kết cấu tiểu thuyết (từ A đến Z). Tôi đã thấy kiểu tổ chức kết cấu này trong tiểu thuyết siêu ngắn (chừng 60 trang in) - Hình bóng đàn bà của Vũ Xuân Tửu. Hai mươi sáu chữ cái, gọi là chương cũng được, gọi là “đoạn” hay “phần” cũng đều được. Chúng giống nhau ở tính chất “trích đoạn” đời sống. Đặc điểm này, theo tôi, có thể do ảnh hưởng từ việc tác giả viết truyện ngắn khá có nghề trước khi viết tiểu thuyết. Nếu so sánh thì khập khiễng nhưng tôi cứ muốn so sánh lối viết này tựa như lối đá tổng lực của đội bóng Hà Lan vẫn được ví là “cơn lốc màu da cam”.
Có cần thiết khen, chê cho cân đối? Có chỗ, tôi nghĩ, phải chê đấy. Có cảm giác anh chia đều “của nả” cho các nhân vật theo tinh thần công bằng theo lối cũ (nghèo khổ bằng nhau). Vì thế mà độc giả có thể bị phân tán. Nhân vật chính đôi khi có cảm giác bị “bỏ rơi” trong khi đáng lí nó cần được chăm bẵm hơn. Nhưng mà, như đã đọc Màu rừng ruộng, tôi vẫn nhận ra sự bao dung của tác giả với số đông. Tôi và nhiều độc giả vẫn thèm muốn nhận ra trong Con chim Joong bay từ A đến Z một nhân vật chính kiểu lão Khúng (Khách ở quê ra) của Nguyễn Minh Châu, Giang Minh Sài (Thời xa vắng) của Lê Lựu, lão Khổ trong tác phẩm cùng tên của Tạ Duy Anh. Nhưng mà đành lòng vậy cầm lòng vậy. Trong tầm quan sát riêng, tôi nghĩ, Con chim Joong bay từ A đến Z là một trong vài ba cuốn tiểu thuyết đáng đọc trong năm 2017. Và nữa, theo tôi, đây chưa phải là cuốn sách mà Đỗ Tiến Thụy không thể vượt qua được trong nghiệp viết của mình.
Hà Nội, tháng 9/2017
Nguồn: Bùi Việt Thắng - VNQĐ
Giải thưởng văn học Sông Mekong lần thứ 11 sẽ diễn ra tại thủ đô Phnompenh, Campuchia vào cuối năm 2020. Hai tác giả Việt Nam đoạt Giải thưởng năm nay là tác giả Trần Nhuận Minh với tác phẩm sách thơ Qua sóng Trường Giang và tác giả Trần Ngọc Phú với tác phẩm Từ Biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp.
Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4-10-1920 - 4-10-2020), NXB Hội Nhà văn cho ra mắt bạn đọc tập sách dày dặn, công phu và nghĩa tình Tố Hữu - Một đường thơ, một đường đời.
Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng, người cuối cùng của phong trào Thơ mới vừa từ giã bạn đọc ở tuổi 100 – thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh - là người “không để thơ… ngủ quên trên thành công của dòng lãng mạn trước đó”.
Đoàn Ngọc Thu nói rằng chị thích thơ của mình ngày xưa hơn. Những xúc cảm ấy vẫn như còn váng vất trong những vần thơ trong tập “Sau bão” (NXB Hội Nhà văn, 2020).
Ra đời cách đây 25 năm, bộ truyện “Kính Vạn Hoa” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có ý nghĩa đặc biệt, khơi luồng gió mới cho văn học thiếu nhi Việt Nam thời kỳ đổi mới, mang đến món ăn tinh thần lý thú bổ ích. Tuy nhiên, quá trình thực hiện bộ sách cũng thử thách những người chọn lựa bước trên con đường dài sáng tạo không ngừng nghỉ.
Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh năm 1920 tại Ðà Lạt, nguyên quán Quảng Bình, lúc nhỏ theo học ở Trường Quốc học Quy Nhơn (cũ), sau đó chuyển ra Hà Nội.
Sáng 22/11/2020, Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã thông báo chia sẻ tin buồn cho các nhà thơ và những người yêu thơ đó là nhà thơ tiền bối nổi tiếng Nguyễn Xuân Sanh vừa qua đời.
NXB Văn học giới thiệu “Nghề vương bụi phấn”, tác phẩm thứ ba của tác giả Nguyễn Huy Du, gồm những câu chuyện về tình thầy trò với văn phong mộc mạc, giản dị nhưng lôi cuốn, nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11.
Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh ngày 16 tháng 11 năm 1920, quê gốc thuộc huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Ông cũng là một trong những hội viên tiền phong tham gia xây dựng Hội Nhà văn Việt Nam. Năm nay ông tròn 100 tuổi. Hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức chúc thọ nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh tại trụ sở số 9, Nguyễn Đình Chiểu hôm 9/11/2020 với sự tham gia của lãnh đạo Hội, các nhà văn nhà thơ và đại diện gia đình của ông.
“Nẻo vào văn xuôi đương đại Việt Nam” là tập tiểu luận - phê bình của TS Bùi Như Hải, do NXB Văn học ấn hành tháng 9-2020.
Sáng 5-11, Viện Văn học Việt Nam đã tổ chức toạ đàm nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh PGS – nhà nghiên cứu văn học Vũ Đức Phúc. Đây là một dịp để các thế hệ Viện Văn học ngồi lại cùng ôn cố và “soi chiếu cho tương lai” – như lời PGS,TS Nguyễn Đăng Điệp, Viện trưởng Viện Văn học nhận định.
Bằng sự lao động miệt mài và nghiêm túc, nhà văn Lê Văn Nghĩa thường gửi đến độc giả những đầu sách độc đáo, nhiều cuốn trong số đó có giá trị như một “bảo tàng ký ức” của không chỉ riêng tác giả.
Thạch Lam (1910 - 1942) là đại biểu xuất sắc của văn xuôi lãng mạn Việt Nam thời kì 1930 - 1945. Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời (Nguyễn Tuân).
Sáng ngày 20/10/2020, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức kỉ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4/10/1920 – 4/10/2020).
Đã có nhiều nhà văn viết về Hà Nội - Thủ đô yêu dấu - như Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nguyễn Khải… Nhưng tập truyện ký “Hà Nội và tôi” (NXB Hội Nhà văn) gần 300 trang với hơn 20 tác phẩm của nhà văn Vũ Ngọc Tiến, một người Hà Nội gốc, đã cho ta biết thêm một phần chân dung về những con người của đất Tràng An thanh lịch.
Tháng 10, nhân kỷ niệm 66 năm ngày Giải phóng Thủ đô, Nhã Nam giới thiệu tới bạn đọc một tác phẩm mới của nhà văn Nguyễn Trương Quý, cây viết vốn quen thuộc với những tản văn về các góc nhỏ của Hà Nội: “”Hà Nội bảo thế là thường”.
Rất lâu rồi, không có luận văn, luận án nào về thơ Tố Hữu. Cũng lâu lắm rồi, sau Hà Minh Đức, Trần Đình Sử… rất ít người viết về thơ ông. Tôi cũng chưa bao giờ viết về thơ Tố Hữu khi ông còn sống. Nhưng với chúng tôi, thơ Tố Hữu là nguồn suối tươi mát, mạch ngầm sống động trong đời sống tinh thần. "Chúng tôi" ở đây là thế hệ những người ở lứa tuổi 70. Trong quãng thời gian 70 năm của một đời người thì ít nhất có 30 năm (1954 - 1975) chúng tôi đã được sống với thơ Tố Hữu.
Bằng kiến thức của một chuyên gia đầu ngành và sự trân trọng quá khứ một đi không trở lại, ông đã chỉ ra giá trị của cuốn sách và ý nghĩa của việc làm sống lại những kí ức Hà Nội rất đặc biệt thông qua cuốn sách này...
Có một bộ phim tôi không thực nhớ nội dung, một bộ phim của Woody Allen mang tên "Đóa hồng tím ở Cairo", câu chuyện mang máng mà tôi còn nhớ, đó là một người phụ nữ thất bại trong tất cả mọi khía cạnh cuộc đời, rồi cô vào một rạp chiếu bóng, xem một bộ phim, và trong giây phút ấy, cô quên béng mất cuộc đời mình, cô òa khóc, không phải vì mình, mà vì những nhân vật trong phim.
Năm 1941, với việc xuất bản Dế mèn phiêu lưu ký ở tuổi 20 (bản in đầu tiên có nhan đề Con dế mèn), Tô Hoài có được hai vinh dự lớn trong nghề cầm bút: Trở thành người mở đầu thể loại truyện đồng thoại; Tác phẩm mở đầu lại là đỉnh cao của thể loại, đồng thời là một trong những áng văn học thiếu nhi nổi tiếng thế giới nhất của Việt Nam.