Ba cuộc gặp gỡ

14:44 21/04/2014

TRỊNH SƠN

Có những người, hiếm thôi, khi đã gặp tôi thầm ước giá như mình được gặp sớm hơn. Như một pho sách hay thường chậm ra đời.

Nhà văn Hồ Anh Thái - Ảnh: internet

Nói là chậm, vì khi sách ấy chưa ra đời thì chẳng ai biết nó sẽ khởi sinh ra làm sao, khởi sự thế nào và hoàn tất bao giờ. Không cứ ai cũng dễ gần, cũng như đâu phải pho sách hay nào cũng ngọt ngào trôi chảy vào dòng tâm tưởng độc giả. Có khi, phải vật lộn với từng cú huých của họ, thậm chí, chịu đựng chính sức chịu đựng của họ. Thấm. Và bất khả kháng, muốn hay không, không thể tách rời hai phần cuộc gặp gỡ giữa ánh mắt ta và chân dung họ.

Hai trường hợp đơn cử cho mơ ước mãnh liệt kỳ lạ của tôi, một là Alfred de Musset của thế kỷ XIX. Người kia, là Hồ Anh Thái bây giờ. Dấu gạch nối thời gian giữa tôi với hai tên tuổi xa vời này có vẻ khác nhau, nhưng sắc màu thì không phân biệt được. Tươi rói hạnh ngộ. Sắc nét luận lý. Và, đầm ấm tình người.

Chính tôi cũng không hiểu, căn nguyên nào khiến mình mê mẩn dòng thơ mẫn cảm, dường như yếu ớt nhưng chẳng bao giờ cong cớn, lắt lẻo, gãy đổ của chàng thi sĩ đa tình nước Pháp? Và, tại sao tôi có thể yêu được tiếng chuông bản nguyện thanh thanh vọng vào tâm tưởng từ một nhà văn vốn dĩ khoác áo công chức, hẳn là nghiêm ngắn và lịch lãm kiểu Bắc?

Ba cuộc gặp gỡ Hồ Anh Thái ưu ái dành cho tôi đều diễn ra trọn vẹn trong bầu trời của một nhà văn đã công thành danh toại với một người đọc vô danh ưa phản biện.

*

Cuộc thứ nhất, Cõi người rung chuông tận thế. Trước đó, tôi có chiêm ngưỡng ông từ một vài truyện ngắn in rải rác trên báo chí và trong tuyển tập nào đó. Hầu như, ấn tượng. Nhưng, chưa rõ cái ấn tượng nó hình thù ra làm sao. Ừ, thì triết lý nhân sinh. Gã đồ tể, chị quét rác còn có nhân sinh triết lý nữa cơ, huống chi một nhà văn. Ừ, thì hóm hỉnh, sắc bén. Chữ ra chữ, đặc biệt thứ ngôn ngữ ông dùng biêng biếc tiếng Việt, ngay cả những thuật ngữ rất Tây, rất Thiền cũng man mác hương vị truyền thống. Truyền thống đúng nghĩa. Một thứ truyền thống tự thân, không cân đai mũ mão phong vương chia đất. Rành mạch mà vẫn kỳ ảo. Diễm ảo thì đúng hơn. Từ những truyện viết nơi xứ người, Mỹ cho đến Ấn, Âu, Đông sang Tây. Tả dân Mỹ bằng ngữ nghĩa cứ như hai miền Nam Bắc nước Mỹ thời nội chiến. Nghĩa là, đấu tranh và hòa hoãn - hòa bình chứ không nhượng bộ. Hồ Anh Thái làm nên một diễn văn Gettysburg bằng tiếng Việt, về sự khẩn thiết giữ gìn và phát huy tiếng Việt.

Nhiều nhà phê bình đã lý giải, chỉ có thể là tư tưởng mới làm nên một Hồ Anh Thái vững chãi như vậy. Giữa cơn bão táp ngoại lai và tự hủy của tiếng Việt thời kỳ đổi mới rồi hội nhập. Nhân vật, dù là một cô gái Mỹ, một nhà văn Hàn hay một vị sư Nepal - họ phát ngôn tư tưởng Việt Nam, bằng tiếng Việt Nam, tự nhiên đến độ hồn nhiên, chớ hề ngượng ngạo. Tôi bỏ được mấy phần cái ba lô Tây An nam xuống sông Tô Lịch từ những bài học nghiêm cẩn của Hồ Anh Thái. Ông dạy tôi tự trọng với tiếng nước mình, khi ông đang ở phương trời xa xứ lạ, nói ngoại ngữ, đọc sách người, kể chuyện đời.

Cõi người rung chuông tận thế đến sớm hơn nhiều, nhưng phải rất lâu tôi mới mon men đến gần. Hành tung của tác giả rành rành ra đấy, nhân vật lộ diện mồn một ra đấy, nhưng không phải qua tầm nhìn của một đôi mắt “đất sét”. Sain Pol Roux cho rằng: “Tạo hóa không cấm đoán ai muốn đi sâu vào những bí mật của nó vì tạo hóa chứa đầy những ‘khuyến cáo’ và ‘mật ước’ chỉ dành riêng cho những ai biết nhìn chúng ngoài đôi mắt bằng ‘đất sét’” (Sain Pol Roux, tác giả: Th. Briant). Nếu ai nói Hồ Anh Thái đang diễn tả Phật pháp là người đó chưa thực sự bước vào địa hạt “cõi người” đầy rung động tư tưởng, bĩ và trị bĩ mà nhà văn đã mở sẵn cửa đón nhận hết thảy kẻ nào muốn vào. Trong đó, nghệ thuật ảo diệu không bởi chi tiết, mà tinh túy chắt lọc từ tất cả chi tiết trình bày trên, trong và cả bên ngoài biên giới tác phẩm. Nghệ thuật không cơi nới, trái lại, mở toang thêm trăm phương ngàn hướng: nghệ thuật tự tâm, nghệ thuật diễn hành, nghệ thuật trì trí, nghệ thuật uyên nguyên… Tận thế, trong giới hạn nghĩ suy của tôi sau khi mò mẫm hỉ nộ ái ố trong từng tích tắc nhân vật và cốt truyện, là sự kiến tạo. Cỏ mọc mầm sau mưa. Hoa đào rơi trên máu kiếm. Hồ Anh Thái không nhận vai, nhưng đã và sẽ được người đời mặc định khi thì là samurai dũng mãnh can trường, lúc lại là thiền sư ung dung uyên áo.

Nghiên cứu Đông phương, nhưng dường như luận lý sách vở mềm mại theo nước theo gió Á châu không giữ nổi cả câu hỏi và câu trả lời Hồ Anh Thái đặt ra trong cõi người xúc xắc bĩ cực thới lai. Tôi có cảm giác, ông đã vẽ cây cầu nối hai bờ Đông Tây, tiếp bước và hoàn thiện công trình dang dở của những người đi trước.

Cây cầu ấy, bắc qua chén trà chát. Chát mà thơm, mà quyến rũ, mà thanh bạch - vượt át vị nồng cay tức tưởi của rượu mê.

Cõi người rung chuông tận thế, tích hợp đồng thời mâu thuẫn dữ dội lẫn dung hòa êm ái của Khổng, Lão, Mặc. Trước đó, trong cuộc lưu vong vô kỳ hạn, E. M. Remarque đã gắng kết nối Jesus, F. Nietzsche và S. Freud, nhưng có vẻ văn hào đã tự làm sụp đổ cấu trúc khát vọng (hy vọng và tuyệt vọng) của mình trong sự sụp đổ của nền văn minh Âu châu. Tôi tự tin nói theo giọng điệu của G. Gordon: Hãy để triết thuyết lụi tàn.

Cuộc gặp gỡ thứ hai, ở giữa. Trung tâm, không phải là thứ một mối quan hệ cần và đủ. Hoặc thiên bên này, hoặc vị bên kia. Dấu gạch nối chỉ là khoảng không, nếu mỗi đối tượng không hút (đẩy) đối phương bằng trường lực của chính mình.

Ảnh hưởng rõ rệt nhất của con người Hồ Anh Thái đến tôi, là sự mẫn cán và tinh thần trách nhiệm không tưởng tượng nổi. Ông công tác lúc nào? Ông nghiên cứu lúc nào? Ông sáng tác lúc nào? Vỏn vẹn hai mươi bốn tiếng đồng hồ mỗi ngày, ông điều chỉnh, phân định ra sao để có thể trọn vẹn và hơn cả trọn vẹn - ngoài ra, còn thai nghén ít nhiều thời gian cho việc xã hội, cho gia đình, cho lớp trẻ, cho nhân tình thế thái?

Lá thư đầu tiên, chỉ là cầu may. Đã gởi hàng trăm tiếng động vào thế giới nhà văn, những con người tưởng chừng nhạy cảm hơn cả, bặt thiệp hơn cả, minh mẫn hơn cả - đặc tính của nghệ sĩ vẫn gắn liền với những mỹ từ như thế. Nhưng, hầu như tôi chỉ nghe tiếng vọng lại của chính mình từ vách đá vô cảm. Đá thế hệ, đá đa đề, đá lợi lộc, đá bè cánh… Trong ngày, tôi nhận được hồi âm của nhà văn Hồ Anh Thái. Và cứ thế. Có ngày, thư đi tin lại nhiều lần.

Cặn kẽ và tỉ mỉ. Thẳng thắn và bộc trực. Ông dạy cho tôi cách làm văn. Kiêu hãnh của một gã nhà thơ múa lửa với ngôn ngữ của tôi như quả bóng nổ dưới sức nóng mặt trời. Ông dạy tôi bằng bài học của tâm. Tâm nhà văn. Tâm nhà báo. Tâm phê bình. Tâm biên tập. Tâm tác giả và tâm độc giả.

Sửa một câu một chữ, ông đều tô đỏ nguyên văn và giải thích tại sao nên sửa và phải sửa? Sửa thế nào? Sửa làm sao cho văn chương ấy vẫn theo giọng điệu của đứa học trò biết sai chứ không phải giọng điệu lão luyện của một bậc thầy. Chợt nhớ, có vị biên tập nọ, bài thơ bảy nhân tám năm mươi sáu chữ của cộng tác viên thì sửa mất năm mươi chữ. Khi in ra, tác giả chỉ còn cái tên mà không thể nhận ra tác phẩm mặc quần áo mới của ai nữa.

Thi thoảng, gặp bức ảnh đẹp, bài viết hay, bản nhạc tuyệt - ông gởi cho tôi. Có lẽ không chỉ gởi cho mình tôi, mà còn cho nhiều người khác. Những điều tốt tươi qua mắt mình, ông không định độc quyền chiếm lấy và giữ lấy, muốn chia sẻ với hết thảy những ai có thể chia sẻ.

Những ngày không thư, tôi đoán ông đang ở trên đỉnh núi nào đó, trong vùng thôn quê hẻo lánh nào đó. Tắt điện thoại, internet và mọi thứ sóng nhân tạo. Chỉ còn lại sóng tự nhiên: sợi dây liên kết giữa tâm hồn con người với trời đất. Chữ sẽ đến, nghĩa sẽ đến như ánh sáng thuở hồng hoang. Không ám thị, không lấm láp tô vẽ. Một tác phẩm mới ra đời. Trong tận cùng nỗi cô đơn nghĩa đen, để đi đến tận cùng sự ấm áp và văn minh cõi người nghĩa bóng. Sáng tạo. Vâng, “sáng tạo trong cô đơn” đã trở nên một thuật ngữ máy móc và giả tạo được lặp lại, lạm dụng quá nhiều. Bạn không thể cô đơn, dù chỉ ở một mình với ghen tuông, uất ức, tỵ hiềm, than thở, mặc cảm, buồn vui ế ẩm. Bạn chỉ có thể cô đơn trong thức ngộ. Trên nền tuyết trắng, một mầm cỏ xanh um lên. Lẻ loi, đơn độc nhưng bền bỉ và mãnh liệt. Đó chính là sáng tạo. Thế giới sáng tạo bạn và bạn sáng tạo thế giới. Bạn sáng tạo chính bạn. Cuộc sáng tạo ấy là tác phẩm.

Chàng thanh niên thất tình “con sáo mái sặc sỡ” George Sand đếm nỗi cô đơn theo từng viên gạch lát hè phố Paris hoa lệ, làm nên ánh tình thơ để đời. Hồ Anh Thái đếm nỗi cô đơn trên số đếm làng mạc, xứ sở, đỉnh núi, con người ông trải qua từng ngày. Đức Phật, nàng Savitri và tôi - có lẽ đã ra đời trong cõi hoang sơ dịu dàng và nồng nàn như thế. Âm lọc âm, ảnh chọn ảnh. Lão nhà văn Hàn Quốc ngủ gật trước cử tọa như thế.

Truyện ngắn Tựa vào gốc anh đào mà ngủ, Hồ Anh Thái kể chuyện một nhà văn lão thành xứ kim chi, “không bao giờ nhận lời tiếp xúc với độc giả”, “khi người đọc phá vỡ quy ước của riêng ông, người đọc xuất hiện hữu hình, ấy là khi nhà văn thất vọng”, có câu thoại: “Cuộc đổ bộ của ta chỉ dừng ở chân núi, còn con, cuộc đổ bộ của con là phải ở trên kia, trên đỉnh núi ấy”. Tôi tin, Hồ Anh Thái cũng đang lặp lại sự ngủ ấy, cuộc đổ bộ ấy với chính mình và thế hệ tiếp nối.

Người nào dám nghĩ rằng mình, thân xác và tâm hồn, chỉ là một cái khuôn, một cái vỏ, một con búp bê rỗng ruột? Để rót đời vào. Để làm đầy chính mình. Nội tâm nhà văn là nơi diễn ra cuộc gặp gỡ thứ ba. Ông gặp lại ông.

Không Diễn, không Sắp đặt, Không hơn gì nhau câu nói, Buông bỏ. “Bàn tay ta nắm được bao nhiêu chiếc lá, thì chỉ bấy nhiêu là đủ cho mình”. “Cái gì cần thiết mà đến một lúc nào đó cũng chẳng giữ được nguyên lành, hãy ý thức được quy luật và hãy buông. Người mà ta yêu mến, một ngày nào đó cũng ra đi, ta chẳng giữ được, hãy biết trước như vậy mà thanh thản, không níu giữ khóc lóc”.

Đi và cứ đi, hành trình của Sách mang theo. Một cuộc “tự thú”, bắt đầu bằng thế giới chân dung nhà văn bạn bè góc cạnh, sắc nét từ bên trong chứ không hề xanh đỏ tím vàng cầu vồng mạo nhận. Họ trở thành nhân vật của tôi - mỗi chân dung là một tấm gương, hơn hết, muốn hay không, tác giả soi mình vào. Dậy lên hương thơm của tấm gương, nếu có. Chứ không vẽ vời, không nặn tượng. Chân dung văn học là thể loại khó. Trước tiên, đối tượng có thật chứ không phải một nhân vật hư cấu thế nào cũng được. Nhưng, cứ kể lể xoành xoạch thì thôi văn vẻ gì nữa, đem máy ảnh tới mà chụp cái rẹt cho xong. Hồ Anh Thái ít viết chân dung văn học, nhưng ông là một trong số ít tác giả viết hay trong thể loại hương hoa này.

Chân dung của chính mình, là chân dung khó viết nhất. Cần sự can đảm, tự trọng và kiêu hãnh. Cần va chạm dữ dội và lắng đọng tuyệt đối. Cần ràng buộc với mọi hoàn cảnh phải có và cắt đứt, kể cả mối liên hệ cuối cùng. “May quá, mình đã qua tuổi sợ bóng tối và sợ ma” (Sợ độ cao). Thể loại tiểu luận và tản văn, ông gặp lại ông rõ rệt nhất. Ông không kể cho ai nghe cuộc gặp gỡ đầy thịnh nộ giấu sau vẻ giễu cợt, hóm hỉnh ấy. Tôi chỉ khéo tưởng tượng.

*

Tôi vẫn còn ước mình có duyên gặp Hồ Anh Thái sớm hơn. Tác giả Lời bộc bạch của đứa con thời đại, cũng thế. Cho đến nay, ông và tôi chưa bao giờ chạm mặt. Có lẽ, hình hài tai mắt mũi miệng chỉ cần thiết cho những người xem nó là tất cả.

Núi Dinh, Bà Rịa 20-25/11/2013
T.S
(SH302/04-14)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN QUANG THIỀU

    Khi đọc xong bản thảo trường ca Nàng, quả thực trước đó tôi không hình dung có một trường ca như vậy được viết trong thời đại hiện nay.

  • TRẦN HỒ  

    Lần đầu tiên Công an tỉnh Thừa Thiên Huế phối hợp với Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh tổ chức trại sáng tác văn học nghệ thuật, với chủ đề “Công an Thừa Thiên Huế - Vì bình yên cuộc sống” chào mừng kỷ niệm 74 năm Cách mạng tháng Tám thành công và Ngày truyền thống lực lương CAND Việt Nam (19/8/1945 - 19/8/2019).

  • ĐỖ TẤN ĐẠT

    (Nhân đọc tập thơ “Nhật ký gió cuốn” - Nxb. Văn học 2018 của tác giả Phạm Tấn Dũng)

  • VƯƠNG TRỌNG  

    Với người làm thơ và bạn đọc Việt Nam, hầu như ai cũng biết thơ Đường luật phát sinh từ đời Đường Trung Quốc cách nay trên một thiên niên kỷ, nhưng không nhiều người biết thơ Tứ tuyệt cũng khởi sinh từ đời nhà Đường.

  • PHẠM PHÚ PHONG    

    Trong bài thơ mở đầu cho tập thơ đầu tiên Cái lùng tung (2007) của Trần Văn Hội, anh có viết rằng: “có những điều anh chưa nói với em/ đó là sự lặng im trong thơ anh” (Đó là sự lặng im), không chỉ là dự cảm, là sự ướm thử mà là định mệnh, là thi mệnh thể hiện quan niệm nghệ thuật của tác giả, trở thành tuyên ngôn cho cuộc sống và sáng tạo nghệ thuật, xuyên suốt cuộc đời và thơ ca Trần Văn Hội.

  • (Một đôi chỗ cần lưu ý)

    CHU TRỌNG HUYẾN

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    (Đọc Phấn hoa, tiểu thuyết của Phạm Ngọc Túy, Nxb. Thuận Hóa, 2019)


  • Trước khi Thơ Mới ra đời, Huế là một trung tâm có nhiều tác giả Thơ Đường nổi tiếng. Sau khi Thơ Mới ra đời và phát triển mạnh mẽ Thơ Đường vẫn thịnh hành cho đến ngày nay.

  • ĐỖ LAI THÚY
     

    Khi mọi thần thoại gãy đổ,
    thơ chính là nơi thần linh trú ngụ.

                (Saint John Perse)
    Tôi không tiến đi đâu cả,
    Tôi là hiện tại.

                (Pablo Picasso)

     

  • TRẦN THÙY MAI    

    (Nghĩ về tập nhạc mới của Trần Ngọc Tuấn)

  • HỒ THẾ HÀ

    Gần nửa thế kỷ liên tục sáng tạo, Nguyễn Quang Hà đã tự tạo cho mình chứng chỉ nghệ thuật vững chắc ở thể loại văn xuôi và đạt được những giải thưởng danh giá do các Tổ chức văn học uy tín trao tặng: 

  • UÔNG TRIỀU  

    Trước kia tôi mê F.Dostoevsky và đánh giá ông là một nhân vật vĩ đại. Tất nhiên bây giờ ông vẫn là một nhà văn vĩ đại bất chấp cảm giác của tôi thế nào.

  • Việc đọc sách đang bị văn hóa nghe nhìn thu hẹp trước sự phát triển không ngừng của công nghệ, nhất là đối với thế hệ trẻ trước cơn bão của mạng xã hội.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Rừng sâu có trước các dân tộc,
    sa mạc đến sau con người

                (F.R.de Chateaubriand)

  • HUỲNH NHƯ PHƯƠNG 

    Trong năm học đầu tiên sau ngày hòa bình (30/4/1975), tất cả các thầy, cô giáo ở Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn đều chưa được dạy học trở lại. Những giáo sư tên tuổi và những giảng viên trẻ cùng ngồi chung trong giảng đường tập trung học chính trị. Một số khác đã đi ra nước ngoài trong những ngày biến động trước đó.

  • VŨ THÀNH SƠN   

    Thơ Vũ Lập Nhật cho chúng ta một cảm giác mất thăng bằng, một thế đứng chông chênh nguy hiểm, như thể khi bước vào thế giới thơ của Vũ Lập Nhật là chúng ta đang bước vào một thế giới khác, một thế giới song song không biên giới; ở đó, trật tự, định luật vạn vật hấp dẫn, sự sáng suốt của lý tính như bị thách thức.

  • THÚY HẰNG  

    Xoài xanh ở xứ sương mù” là tập tản văn dày 340 trang do nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh ấn hành cuối năm 2018. 

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH 

    Chân trời là giới hạn của tầm mắt, dẫn đến ảo tượng về sự giao nối giữa trời và đất. Do vậy, chân trời vừa hữu hạn, vừa vô hạn.

  • ĐÔNG HÀ  

    Tôi yêu thơ Nguyễn Trọng Tạo từ những năm còn là sinh viên. Tuổi trẻ nhiều háo hức, về tình yêu, về non xanh và tơ nõn. Nhưng khi bắt gặp những câu thơ chảy ngược trong tập Đồng dao cho người lớn, tôi lại choáng váng.