Ba bài thơ về Đức Phật của Rainer Maria Rilke

10:53 11/06/2008
LGT:Rainer Maria Rilke (1875 – 1926) người Áo, sinh tại Praha, đã theo học tại Praha, Muenchen và Berlin triết học, nghệ thuật và văn chương, nhưng không hoàn tất. Từ 1897 ông phiêu lưu qua nhiều nước Âu châu: Nga, Worpswede (Ðức) (1900), Paris (1903) và những nước khác trong và sau thời thế chiến thư nhất (Thụy sĩ, Ý…). Ông mất tại dưỡng viện Val-Mont vì bệnh hoại huyết.

R. M.Rilke là một trong những thi hào quan trọng nhất của dân tộc Ðức. Trong số các tư tưởng gia và thi nhân Ðức, tên tuổi ông đứng bên cạnh các đại thi hào Goethe, Schiller, Hölderlin. Cũng như những tác phẩm của H. Hesse, những bài thơ về Ðức Phật của R. M. Rilke đã được giới Phật tử trên thế giới truyền tụng từ lâu. Trong các thập niên từ 30-60 thế kỷ 20 và về sau, văn chương của Rilke được giới thức giả Việt Nam biết đến qua những tác phẩm dịch bằng tiếng Pháp.
Với các bài thơ về Ðức Phật, Rilke đã xuất hiện trước giới trí thức Phật tử VN thời ấy như một “người Ðức trầm lặng”, nhạy cảm, tế nhị và khiêm cung. R. M. Rilke không phải là Phật tử, ông cảm hứng làm thơ về Phật. Ðọc 3 bài thơ về Phật, thoạt tiên ta có cảm giác ông đang đứng xa nhìn về một biểu tượng tôn giáo. Ông nhìn Phật như một người lạ hay một người “hành hương xa lạ” (Rilke, Buddha 2), cách xa, thoáng chút nghi hoặc, ngập ngừng, tò mò dò dẫm, còn thế tục, như thái độ tìm hiểu của một người Tây phương tầm thường, rồi chưa đầy một thoáng quay người, bỗng nhiên người ấy biến mất mà chỉ còn thi nhân đứng đó, tràn ngập cảm xúc và rung động của con tim trí tuệ: Rilke đã hiểu Phật, thấy, ngộ, lần theo “hướng của con tim” (Rilke, Briefe, ebd). Rilke gặp Phật trong tự tính sâu xa và hồn nhiên của ý niệm chân lý toàn diện nhân bản tại thế ấy. Chính thể nghiệm thi ca “tâm truyền tâm” này đã làm cho R.M. Rilke trở thành một khám phá mới cho sự liễu tri kinh nghiệm chứng ngộ trong Thiền học đối với các nhà Phật học Tây phương...
THÁI KIM LAN (dịch và giới thiệu)



BUDDHA -  ÐỨC PHẬT

Dường như Ngài đang lắng nghe. Tĩnh lặng: cõi xa…
Ta dừng lại và không còn nghe im lắng
Và Ngài là vì sao. Và những sao trời khác lạ,
mờ mịt mắt trần, lũ lượt về quanh tinh đẩu sáng. 

Ôi, Ngài là tất cả. Chân như đó, có phải ta chờ
Ngài thấy ta? hay Ngài cần phải thấy?
Thảng như nơi đây ta phủ phục trước Ngài,
Ngài vẫn như loài thú hồn nhiên trầm sâu tự tại.  
 
Thế rồi điều dục ta dứt bỏ để tìm Ngài
 “cái ấy” từ triệu kiếp luân lưu trong thân Thế giải[i]
Như Lai[ii], đấng xả bỏ những gì con người từng trải.
Và đấng từng trải những điều khuyên người lầm lạc bỏ mê.


Rainer Maria Rilke, cuối năm 1905


Buddha

Als ob er horchte. Stille: eine Ferne…
Wir halten ein und hören sie nicht mehr
Und er ist Stern. Und andere große Sterne,
die wir nicht sehen, stehen um ihn her.

O er ist alles. Wirklich, warten wir,
daß er uns sähe? Sollte er bedürfen?
Und wenn wir ihn hier vor ihm niederwürfen,
er bliebe tief und träge wie ein Tier.

Dann das, was uns zu seinen Füßen reißt,
das kreist in ihm seit Millionen Jahren
Er, der vergisst, was wir erfahren,
und der erfährt, was uns verweist.

Rainer Maria Rilke, Ende 1905


ÐỨC PHẬT TRONG HÀO QUANG
– Buddha in der Glorie

Tâm của toàn Tâm, Nhân của Nhân
Quả Hạnh Nhân - vừa viên thành, thấm ngọt
Cái TẤT CẢ ấy vút đến sao trời muôn một
Là xác thịt quả nhân: xin chào hân hạnh! 

Hãy xem! Nơi thân này còn chi vướng bận,
trong vô cùng là lớp vỏ ngoại thân
và ở đó nhựa dâng đầy tràn ứ
và bên ngoài ấp ủ ánh hồng quang

Bởi lẽ trên tận đỉnh cao kia, tròn đầy rực sáng
Vầng thái dương đang chuyển bóng tà dương            
Nhưng “quả thật”  chính từ trong trái hạnh
đã trỗi mầm nhân vượt qua mọi vầng dương.

Budha in der Glorie

Mitte aller Mitte, Kern der Kerne
Mandel, die sich einschließt und versüßt
Dieses Alles bis an alle Sterne
Ist dein Fruchtfleisch:sei gegrüßt

Sieh, du fühlst, wie nichts mehr an dir hängt
Im Unendlichen ist deine Schale,
und dort steht der starke Saft und drängt
Und von außen hilft ihm ein Gestrahle.

Denn ganz oben werden deine Sonnen
Voll und glühend umgedreht
Doch in dir ist schon begonnen,
was die Sonnen übersteht.

BUDDHA – ÐỨC PHẬT

Từ đàng xa, rụt rè, lạ lẫm, 
kẻ hành hương cảm nhận
tượng đâu mà vàng chảy thành giòng
như thử có các nhà giàu hối lỗi ăn năn
đem hết của dấu kín chất lên thành đống.

Nhưng lại gần hơn, y bỗng phát điên 
Trước vẻ cao cả của  nét mày thanh thoát
Ðây chẳng thấy  bộ tách trà qúi tộc  
Cũng không hoa tai trang sức quí phu nhân

Nào có ai biết nói dùm cho,
hiện vật gì đã được bỏ vào nung chảy,
để bức tượng này trên đài hoa ấy
 
được dựng lên: lặng lẽ hơn, vàng dịu êm hơn
một pho tượng vàng ròng và toàn thể chu thân
(cũng) sờ nhẹ không gian như thoa nhẹ chính mình.
19. 7. 1906, Paris

BUDDHA

Schon von ferne fühlt der fremde scheue
Pilger, wie es golden von ihm träuft:
So als hätte Reiche voller Reue
Ihre Heimlichkeiten aufgehäuft.

Als näher kommend wird er irre
Vor der Hoheit dieser Augenbraun:
Denn das sind nicht ihre Trinkgeschirre
Und die Ohrgehänge ihrer Fraun.

Wüßte einer denn zu sagen,
welche Dinge eingeschmolzen wurden, um
dieses Bild auf diesem Blumenkelche

aufzurichten: stummer, ruhiggelber
als ein goldenes und rundherum
auch den Raum berührend wie sich selber.
Rainer Maria Rilke, 19. 7. 1906, Paris



[i] Hai câu này đã được dịch thoát nghĩa theo tinh thần đạo Phật
Từ ức kiếp luân lưu trong thân Thế giải
Mầm thiện duyên thúc dục đến bên Ngài
Thế giải hay Thế gian giải là một danh hiệu của Phật, người giải phóng thế gian.

[ii] Như Lai: kẻ đến như thế hay Tathagata là danh hiệu của Phật

10 danh xưng truy tặng cho Ðức Phật là: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế gian giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự trượng phu, Thiên Nhân sư, Phật thế tôn.

 

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM XUÂN DŨNG

    Trong số các nhà thơ, nhà văn quê hương Quảng Trị, Vĩnh Mai không phải là một tên tuổi lớn như Chế Lan Viên hoặc Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhưng ông vẫn là một tác giả đáng ghi nhận, một nhân cách đáng kính, một người trí thức đầy lòng tự trọng, một người yêu nước chân chính.

  • THẢO LINH 

    Đà Lạt thành phố của ngàn hoa với những con đường trập trùng quanh phố núi với ảo diệu sương mù. Đà Lạt với cảnh sắc hữu tình và thơ mộng đã đi vào thi ca, nhạc họa từ bao đời nay và còn tiếp tục làm say lòng bao người đến kẻ đi.

  • TRẦN TRIỀU LINH

    (Đọc Đi ngược đám đông - Thơ Đông Hà, Nxb. Thuận Hóa, 2014)

  • UYÊN PHƯƠNG 

    Bạn đang sống ở Thủ đô Hà Nội ngàn năm cổ kính hay giữa Sài Gòn hoa lệ vàng rực ánh nắng hoặc giả có thể ở bất cứ thành phố náo nhiệt nào trên đất nước Việt Nam? Bạn đang hòa mình vào nhịp sống đô thị với đầy ắp sự văn minh, hiện đại nhưng cũng khá ồn ào và bụi bặm, thậm chí có lúc bạn cảm thấy chán nản muốn rời xa sự xô bồ và ngột ngạt của chúng?... Vào lúc ấy, chắc hẳn bạn sẽ rất vui nếu được đi đâu đó vài ngày… Cảm giác khi tạm rời xa nơi thành phố cũng rất tuyệt”.

  • LÊ VIỄN PHƯƠNG

    Thơ Tân hình thức Việt - Tiếp nhận và sáng tạo” là công trình Tạp chí Sông Hương phối hợp với Nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành vào tháng 6 năm 2014.

  • Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên - gọi thân mật là Nguyên “đầu bạc” (vì mái đầu bạc trắng từ lúc còn trẻ) - một người xứ Nghệ “thuần chủng” cha ở Nghệ An, mẹ ở Hà Tĩnh, nhưng đang là Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

    Có thể nói cuốn “An lạc mùa chay - Món chay dâng Mẹ” của nhà thơ, chuyên gia ẩm thực Hồ Đắc Thiếu Anh (Nxb. Phụ Nữ, 2014) vừa được Nhà sách Phương Nam ấn hành trong tháng tám vừa qua, là cuốn sách thực hành về sự an lạc.

  • Tiếp sau Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu Trinh..., đến lượt Phan Khôi được mở hội thảo khoa học tại quê hương Quảng Nam hôm qua 6.10, đúng 127 năm ngày sinh của ông, để vinh danh một con người đa tài.

  • (Phỏng vấn đối thoại với các nhà văn Nguyễn Đình Thi, Nguyên Ngọc và nhà thơ Trần Dần)

  • Hữu Loan [1916-2010 là khuôn mặt văn học đặc biệt trong nền thi ca Việt Nam đương đại từ non 70 năm nay. Ông làm thơ hay, hiện đại, tân kỳ, nhưng tên tuổi thường xuất hiện theo thời sự.

  • Tiểu thuyết "Công chúa nhỏ" của Frances Hodson Burnett kể câu chuyện về cô tiểu thư thất thế, nhưng vẫn mang trong mình cốt cách lớn.

  • (Vài cảm nhận khi đọc “BÀN TAY NHỎ DƯỚI MƯA” tiểu thuyết của nhà văn TRƯƠNG VĂN DÂN
    (cty vh Phuong Nam-Nxb Hội Nhà văn, 2011)

  • “Lịch sử không bao giờ lầm lẫn, nhà văn Lan Khai là người có công với nước”. Câu nói đó của Thiếu tướng Hoàng Mai đã khẳng định những cống hiến của Lan Khai đối với cách mạng và nền văn học nước nhà. Từ thành tựu sáng tác cho đến nhận định của các nhà văn, nhà báo tiền bối (Trần Huy Liệu, Hải Triều, Vũ Ngọc Phan...) về Lan Khai, chúng ta càng thấy tự hào về một con người, một nhà văn đáng kính đã làm trọn thiên chức của mình đối với dân tộc...

  • “Những năm chiến tranh, miền Trung là túi bom túi đạn, và nguồn lực đất nước cũng dồn về đây. Nhiều nhà văn nhà thơ, nhiều tác phẩm VHNT nổi tiếng cũng xuất hiện từ vùng đất này. Còn hiện nay, dù đội ngũ tác giả ở miền Trung có thưa hơn, nhưng những con người miền Trung dù đi đâu cũng vẫn mang theo truyền thống sáng tạo độc đáo, giàu khí chất của miền đất này. Đó là một cuộc mở mang và bồi đắp tâm hồn trên dọc dài đất nước…”

  • Khi cầm bộ sách này trong tay thì hình ảnh nhà nho yêu nước Phạm Phú Thứ không còn bị khuất lấp trong lớp sương mù thời gian mà hiện ra rờ rỡ, rõ ràng trước mắt chúng ta với một tâm thế mới.

  • “Có lần tôi hỏi anh Học: Tư tưởng cách mệnh của mày nảy ra từ hồi nào? ​Anh đáp: Từ năm độ lên mười tuổi! Hồi ấy tao còn học chữ Nho ở nhà quê...”.

  • NGÔ MINH

    Trong các tập thơ xuất bản ở Huế trong mấy năm lại đây, "Ngọn gió đi tìm" là một trong số rất ít tập được đọc giả mến mộ, có thể nói được rằng: đó là một tập thơ hay! Tập thơ tạo được sự cuốn hút, sự nhập cuộc của người đọc.

  • “Với Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, GS Lê Thành Khôi đã trình bày lịch sử không phải lịch sử chính trị, mà là lịch sử của con người”, GS Phan Huy Lê nói về cuốn sử quý vừa ra mắt tại VN sau nhiều năm ở nước ngoài.

  • Sự nát tan của các giá trị tinh thần trong đời sống hiện đại được Trần Nhã Thụy đưa vào tiểu thuyết mới bằng văn phong hài hước, chua chát.

  • Cuốn sách "Trăm năm trong cõi" của giáo sư Phong Lê viết về 23 tác giả khai mở và hoàn thiện diện mạo văn học hiện đại Việt Nam.