TRẦN THỊ KIÊN TRINH
Mùa hè năm nay tôi có dịp trở lại Sài Gòn. Thành phố với bao đổi thay nhưng tôi chưa kịp nhận thấy hết bởi thời gian tôi lưu lại Sài Gòn quá ngắn ngủi.
Trần Thị Kiên Trinh (em gái Trần Quang Long) bên mộ phần Trần Quang Long
Điều thôi thúc tôi về Sài Gòn lần này không phải để nhìn thấy sự lộng lẫy của thành phố từng mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn Đông” mà tôi muốn đến thăm anh - nhà thơ, liệt sĩ Trần Quang Long. Anh đã được gia đình, bạn bè, Ủy ban Mặt trận thành phố Hồ Chí Minh, Đoàn TNCS thành phố Hồ Chí Minh tìm hài cốt anh bấy lâu lưu lạc trong rừng (Sa-Mat, Tây Ninh, gần biên giới Campuchia), cất bốc cải táng và đưa anh về yên nghỉ ở Nghĩa trang Liệt sĩ Thành phố.
Tôi đến Sài Gòn trời cũng đã xế chiều (khoảng 4giờ chiều). Trần Xuân Thắng, con trai anh Trần Quang Long chuẩn bị đón tôi về nhà.
Căn nhà nhỏ ở tầng 2 khu chung cư, cư xá Thanh Đa được chị Quỳnh Như - mẹ của Thắng mua trong dự án xây dựng khu chung cư mà lúc đó chị là một kiến trúc sư (1973). Điều đó giúp tôi hiểu hơn vì sao Thắng không chuyển đến một chỗ ở mới hơn, rộng rãi, tiện nghi hơn mà vẫn gắn bó với khu chung cư lâu đời này.
Bàn thờ anh Trần Quang Long được đặt ở một vị trí thật khiêm tốn mà trang trọng trong phòng khách.
Anh ra đi khi Thắng chưa kịp chào đời. Chị Tôn Nữ Quỳnh Như - vợ anh cũng theo anh về khi Thắng còn rất nhỏ - chưa đầy 9 tuổi (1977). Cả hai anh chị hàng ngày chứng kiến sự lớn lên của cháu nội (các con của Thắng) trong căn nhà đầy kỷ niệm của anh chị.
![]() |
Trần Xuân Thắng (con trai Trần Quang Long) và Trần Thị Kiên Trinh |
Tôi thắp lên bàn thờ anh nén nhang thương nhớ. Điều kỳ lạ cây nhang tôi thắp cháy không bình thường như những cây nhang khác, đã để lại một đường cong vút cho đến tận chân nhang mà không đứt gãy!
Thắng bảo, ba cháu thiêng lắm. Ba cháu biết cô đến thăm đó.
Thắng cho tôi xem những đoạn phim ghi lại hành trình tìm kiếm hài cốt và cải táng anh như thế nào.
Tàn nén nhang, trời cũng vừa chập tối. Hạnh, vợ Thắng đã chuẩn bị cơm tối nhưng tôi không ở lại dùng cơm cùng các cháu được. Tôi muốn đến thăm mộ anh trước lúc nghĩa trang đóng cửa.
Thắng cho biết nghĩa trang đóng cửa lúc 5 giờ. Đi giờ này chưa chắc đã vào được nhưng tôi vẫn thử vận may. Biết đâu anh sẽ phù hộ cho tôi, sẽ giúp tôi được toại nguyện.
Len qua dòng người, xe chật cứng như nêm, thành phố đã lên đèn. Chúng tôi về Nghĩa trang Liệt sĩ Thành phố ở quận 9.
Khoảng nửa giờ đi đường, Thắng bảo: “Cô ơi đến nơi rồi”.
Tôi quá đỗi vui mừng, cổng nghĩa trang vẫn còn một cánh cửa đang mở như chờ đợi cô cháu tôi vào!
“Anh mở cửa chờ em đến thăm anh phải không anh” tôi thầm nghĩ như vậy.
Ngoài đường ồn ã, hối hả là vậy nhưng ở đây một không gian yên lặng đến trái ngược!
Bóng tối bao trùm khu nghĩa trang. Tôi chỉ nhìn thấy một phần “ngôi nhà chung” nơi anh yên nghỉ, nhờ ánh đèn chiếc xe máy mà Thắng chở tôi đến.
Những hàng cây cao tỏa hơi mát đến lạnh người sau cơn mưa chiều mùa hạ. Ban ngày là những chiếc ô che nắng cho các anh chị yên nghỉ nơi đây.
Mộ anh nằm ở một nơi rất đẹp, rất dễ nhìn thấy. Ở ngoài nhìn vào mộ anh nằm ở vị trí thứ ba, dãy thứ hai, cạnh mộ anh Trần Triệu Luật. (Lúc mất hai anh ở chung một hầm, nay hai anh lại được ở bên nhau).
Tôi đốt nhang thắp lên mộ anh và không quên cắm vào các bia mộ khác quanh mộ phần anh như một lời chào hỏi.
Chúng tôi nhìn anh. Anh nhìn chúng tôi.
“Anh ơi, em đến thăm anh, anh biết không?”
Anh nhìn tôi với đôi mắt trìu mến yêu thương! Tôi cảm nhận được điều đó.
Tôi trò chuyện với anh mặc dù không nghe được tiếng anh trả lời!
Tàn nén nhang, chúng tôi tạm biệt anh ra về.
Tiếng xe nổ, ánh đèn pha và mùi khói hương như phá đi sự tĩnh mịch ngắn ngủi của khu nghĩa trang về đêm.
Chúng tôi ra về, lòng tràn ngập hạnh phúc.
Tôi đã đến thăm anh, đã được gặp anh và thắp lên mộ phần anh nén nhang thương nhớ như một minh chứng: Anh đã có một nấm mồ!
Sự trở về của anh từ rừng sâu biên giới, về với sự yêu thương của mọi người trong lòng thành phố, là một hành trình kỳ lạ và có hậu.
Huế, 10/7/2013
T.T.KT
(SDB10/09-13)
Sau ba năm đi giang hồ Trung Quốc. Nguyễn Du trở về, ở tại Thăng Long từ cuối năm 1790 cho đến năm 1794. Đó là ba năm «Chữ tình chốc đã ba năm vẹn», lưu lại trong Lưu Hương Ký của Hồ Xuân Hương.
Báo Tin Tức Chúa Nhựt, 3.11.1940 mở đầu bằng mấy hàng như sau: “Hai mươi chín tháng Chín Annam (20 Octobre 1940). Thêm một ngày đáng ghi nhớ. Một người đã mất: cụ Sào Nam Phan Bội Châu”
Với giọng văn sinh động, pha chút hài hước, hình minh họa ngộ nghĩnh, phù hợp với lứa tuổi học trò: “Chuyện kể về thầy trò thời xưa”, “Những tấm lòng cao cả” hay bộ văn học teen “Cười lên đi cô ơi”… sẽ đem đến cho độc giả nhiều cung bậc cảm xúc và hoài niệm.
Trong tất cả các Ni sư Phật giáo mà tôi được biết và chịu ơn hoằng pháp vô ngôn, có lẽ người gần gũi với tôi nhất trong đời là Cố Đại Trưởng lão Ni chúng – Sư Bà Cát Tường - nguyên trụ trì chùa sư nữ Hoàng Mai ở Thủy Xuân – Huế.
LTS: Nhà thơ, nhà văn Thanh Tịnh năm 78 tuổi sức khỏe không còn như buổi thanh niên, nhưng ngòi bút của ông vẫn còn cái sung sức của một người đã từng yêu du lịch và làm nghề hướng dẫn khách du lịch toàn Đông Dương. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc những trang hồi ký đầy lý thú của Thanh Tịnh.
NGUYỄN XUÂN HOA
Tôi không có dịp được học với thầy Phạm Kiêm Âu, người thầy nổi tiếng ở Huế, nhưng lại có cơ duyên cùng dạy ở trường nữ trung học Đồng Khánh với thầy trong các năm 1974 - 1975.
Vậy là nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh đã về cõi thiên thu giữa một sáng mùa thu Hà Nội lay phay gió mù u!...Trước khi chưa kịp được vuốt mắt, dường như đôi đồng tử của ông vẫn còn lưu giữ lại hình ảnh đau đáu về con sông Cụt quê nhà.
Với một tướng lãnh võ biền, thì mục tiêu cuộc dẹp loạn là đánh tan loạn quân, rồi ca khúc khải hoàn, ăn mừng chiến thắng.
PHÙNG TẤN ĐÔNG
“Đời của nó như thể bềnh bồng
Cái chết của nó như thể an nghỉ”
F.Jullien
(Dẫn nhập cuốn “Nuôi dưỡng đời mình - tách rời hạnh phúc” - Bửu Ý dịch, 2005)
THANH TÙNG
Hiệp định Genève ký kết, sông Bến Hải tưởng chỉ là giới tuyến tạm thời, không ngờ đã trở thành ranh giới chia cắt đất nước Việt Nam hơn 20 năm. Nỗi đau chia cắt và biết bao câu chuyện thương tâm, cảm động đã diễn ra ở đôi bờ Hiền Lương kể từ ngày ấy. Nhiều cuộc tình đẫm máu và nước mắt. Có những đôi vợ chồng chỉ ở với nhau đúng một đêm. Có người chồng Bắc vợ Nam, khi vợ được ra Bắc thì chồng lại đã vào Nam chiến đấu, đời vợ chồng như chuyện vợ chồng Ngâu.
“Thưởng thức là ngưỡng cửa của phê bình. Chưa bước qua ngưỡng cửa ấy mà nhảy vào cầm bút phê bình thì nhất định mắc phải những sai lầm tai hại. Không còn gì ngượng bằng đọc một bài người ta đem dẫn toàn những câu thơ dở và những câu ca dao dở mà lại đi khen là hay”. (Vũ Ngọc Phan, trích từ Hồi ký văn nghệ, tạp chí Văn Học, Hà Nội, số 4 năm 1983, trang 168).
VƯƠNG TRÍ NHÀN
I
Hè phố Hà Nội vốn khá hẹp, chỉ có điều may là ở cái thành phố đang còn lấy xe đạp làm phương tiện giao thông chủ yếu này, người đi bộ có phần ít, phía các phố không phải phố buôn bán, vỉa hè thường vắng, bởi vậy, nếu không quá bận, đi bộ lại là cái thú, người ta có thể vừa đi vừa nghỉ, thoải mái.
Gặp người thư ký của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm xưa, tôi có dịp biết thêm những tình tiết mới quanh câu chuyện hơn 30 năm về trước khi tiểu thuyết “Búp sen xanh” của nhà văn Sơn Tùng được tái bản lần đầu.
THẾ TƯỜNG
Ký
"Quê hương là chùm khế ngọt
cho con trèo hái cả ngày"
Một nhà báo Pháp sắp đến Việt Nam để tìm lại một di sản chiến tranh, nhưng ở một khía cạnh nhân văn của nó - đó là những con người, địa điểm từng xuất hiện trong các bức ảnh mà nữ phóng viên chiến trường nổi tiếng Catherine Leroy ghi lại trong cuộc tấn công Mậu Thân vào thành phố Huế.
Thanh Minh là bút danh chính của Nguyễn Hưu(1), người làng Yên Tập, tổng Phù Lưu, huyện Can Lộc, nay là xã Tân Lộc, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
LTS: Nhà văn Lan Khai tên thật là Nguyễn Đình Khải, sinh năm Bính Ngọ 1906 ở Tuyên Quang, song lại có gốc gác dòng họ Nguyễn ở Huế. Ông nổi tiếng trên văn đàn Việt Nam từ những năm 1930 - 1945, được mệnh danh là “nhà văn đường rừng”, để lại hàng trăm tác phẩm văn học, trong đó có gần 50 cuốn tiểu thuyết.
Thực tế lịch sử gần 70 năm qua đã khẳng định rằng Cách mạng Tháng 8 năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả của hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ và là kết quả tất yếu từ công lao to lớn của Bác chuẩn bị cho việc tiến hành cuộc cách mạng giải phóng kể từ ngày Bác về nước.
Tháng Bảy âm. Tháng cô hồn. Mồng một âm đã rả rích mưa báo hiệu cho một tháng âm u của Tiết Ngâu. Sắp rằm, tâm trí chợt như hửng ấm khi tiếp được cái giấy Hà Nội mời dự lễ khánh thành nhà bia và Khu tưởng niệm đồng bào ta bị chết đói năm 1945. Chợt nhớ, công việc này đã manh nha từ hơn mười năm trước…
LTS: Nguyễn Hưu, bút danh Thanh Minh, sinh năm 1914, quê huyện Can Lộc, hoạt động báo chí và văn học từ những năm 1934 - 1935. Ông là nhà báo, nhà thơ, dịch giả Hán - Nôm, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, nhà quản lý văn hóa văn nghệ có nhiều thành tựu và cống hiến. Ông là Hội trưởng Hội văn nghệ Hà Tĩnh đầu tiên. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông [21.8], VHNA sẽ lần lượt đăng một số bài viết về ông.