NINH GIANG THU CÚC
Tôi đọc Tim Tím Huế của Bùi Kim Chi bằng tâm trạng, và tâm cảm mình là một kẻ đang được dự phần trong cuộc hành hương về vùng trời hạnh phúc, về thiên đường của tuổi măng tơ, về lứa tuổi mà ai đó đã rất tự hào và trân quý khi họ viết.
Em tuổi băng sương tình chớm nở
Mười sáu trăng tròn đượm tiết trinh…
Những nhân vật được xây dựng hoặc được tái hiện ở Tim tím Huế là những nguyên mẫu mà giờ đây đã là bà nội, bà ngoại, tóc bạc da mồi và cũng có thể nhiều người đã về thiên cổ…
Bằng bút pháp tinh tế nhẹ nhàng, nhu thuận đầy nữ tính, tác giả đã đưa từng người đọc về lại vùng trời ngập đầy nắng mật ong cuối hạ với bao sợi heo may báo hiệu thu về.
Mùa thu! - mùa của tình yêu - mùa của bao cô con gái Huế, dịu dàng trong tà áo tím trinh nguyên mộng mơ, e ấp với những rung động đầu đời.
Mỗi bạn đọc đều thấy như có mình đâu đó trong từng nhân vật mà Bùi Kim Chi đặc tả qua 12 truyện ngắn và 8 bút ký của toàn tập. Tim tím Huế không gian nghệ thuật là Huế với màu tím đặc trưng, thời gian và nhân vật là cái thuở ngày xưa Hoàng Thị với trường lớp bạn bè, với những vòng quay của hai bánh xe đạp trong từng buổi đi về trên bao nẻo đường rợp nắng của quê hương, nơi ấy có từng mái nhà ăm ắp niềm hạnh phúc, nơi ấy có mẹ hiền, cha nghiêm, có vườn cây trái với bao dị thảo kỳ hoa, là thiên đường mật ngọt của các cô nàng ngây thơ tinh nghịch, đó là tất cả bối cảnh mà các thế hệ con gái Huế, học trò Huế xê xích nhau 5 đến 10 tuổi đều đã sống một thời như vậy, như thế, như như…
Đọc Tim tím Huế để thấy mỗi người đều trẻ lại, đều được cải lão hoàn đồng để mỗi bà già Huế con cháu đông đàn thoắt cái đã nhanh nhẹn:
“…Đạp xe lên dốc Nam Giao thì trời đã về chiều. Sầu đông tím ngát bên đường theo tôi xôn xao trong gió tỏa hương trinh nguyên huyền hoặc quyện vào hồn con gái. Tôi mơ màng nhìn chiều tím đang lên - lãng du cùng mật ngọt của thời gian. Đây rồi đồi Quảng Tế! Cả một khoảng trời tím về dần trên đồi. Dưới gốc ngàn thông tôi bồi hồi nhìn mây tím thả một dải lụa ngọc ngà…”.
(Trích truyện ngắn Tim tím Huế)
Người viết bài này đã đọc đoạn trích dẫn trên mấy đến chục lần và phác thảo lại hình ảnh của chính mình 50 năm về trước, chính mình mà không ai khác đang ngồi dưới rặng thông của đồi Quảng Tế với một tâm thể xúc cảm reo vui trong phút giây huyền nhiệm giữa không gian bàng bạc khói sương hư ảo, chính cái màu tím huyền hoặc trên đồi Quảng Tế làm tôi mê đắm cho đến khi luân lạc tha phương, tôi đã viết:
“Chiều vẫn tím khung trời mộng mị
Người vẫn xa mỏi cánh thiên di”
Và cũng chính cái màu tím ở đồi Quảng Tế dạo ấy đã làm tôi suýt bị đòn nhiều bận bởi về nhà trễ giờ quy định…
Thế mà, bây giờ có lúc tôi đã quên, bởi phải đối đầu bao thực tế phũ phàng, bao bận rộn với chồng con với cơm áo nhiêu khê… Xin cảm ơn, vô cùng cảm ơn tác giả đã đưa tôi về lại tuổi ngọc ngà thuở tràn đầy mộng ước buổi ban sơ.
Tinh nghịch là thuộc tính của tuổi vừa mới lớn, của cái thời nhất quỷ nhì ma, cho nên:
- …Chào anh, Bình Minh vừa về đó anh. Lệ Dung tỉnh bơ bước xuống từng bậc cấp của trường Đại học Sư phạm, vừa đi vừa nói với anh, sau lưng anh là Diệu Liễu lấm la lấm lét nhìn anh với vẻ ái ngại. Anh lịch sự gật đầu chào Lệ Dung rồi quay xe trở ra. Đợi cho chiếc SS đen rời khỏi cổng trường, Lệ Dung mới vội vàng quay trở lại lớp.
- Ê, tụi bay! Cho Bình Minh ra. Anh ấy về rồi. Các bạn phục mình chưa? Mình nói là anh ấy tin ngay.
Bình Minh vội vàng lấy nón, yểu điệu thục nữ với chiếc nón bài thơ đội lên đầu. Thế rồi cả nhóm 6 đứa: Liên Thi, Hoàng Thương, Chân Tú, Lệ Dung, Diệu Liễu và Bình Minh cùng nhau rời trường…”.
(Trích Hương xưa bút ký)
Tôi dẫn đoạn văn trên trong bút ký Hương xưa để bạn đọc thấy được sự nghịch ngầm, sự tinh quái, phá phách rất dễ thương của các cô đối với người yêu bạn mình, chỉ tội cho mấy anh chàng hiền lành cả tin là tha hồ bị gạt mà khổ nỗi là có sự đồng phạm của người mình yêu cơ chứ.
Ta hiểu tác giả về quan điểm tình yêu qua nhân vật xưng tôi:
… “Ai cũng có một mối tình nho nhỏ giấu kín trong tim. Tôi cũng thế! Người tình của tôi rất lãng mạn và rất “lạ” trong cách tỏ tình. Tôi là con bé tinh nghịch dễ thương nhưng rất khó tính. Thế nhưng anh đã chiếm lĩnh được hồn tôi bằng những bức thư dễ thương của một mối tình thơ mộng thời sinh viên…”.
(Trích Những bức thư tỏ tình dễ thương)
Tim Tím Huế không chỉ có tình yêu thơ mộng của tuổi học trò tuổi sinh viên, không chỉ có những cuộc hôn nhân tốt đẹp môn đăng hộ đối, không chỉ có sự lãng mạn của từng tâm hồn thiếu nữ, có sự nghiêm cẩn trong nề nếp giáo dục của mỗi gia đình đã thai thành ra các cô, có sự tự ái của các đấng bậc cô thầy dành cho lớp lớp môn sinh…
Tim Tím Huế còn bao sự bao tình u ẩn khác, với nhiều nhiều hỉ nộ ái ố cho từng số phận phong vận kỳ oan, cho những ân tình dang dở, ta khóc cho nỗi bất hạnh của một Tố Cầm trong “Người đẹp Cầu Đất”, cho một Khuê và Từ với mối tình câm lặng trong “Trái tim biết khóc”.
Ta kính trọng một tình yêu thiên thu của Vân Linh và anh chàng Pilot hào hoa yểu mệnh trong “Sương phụ”.
“Mãn tang chồng, nàng vẫn trong tà áo lụa đen, thay vào dải khăn trắng trên đầu là một đóa hoa lan trắng cài lên tóc, trông nàng khiêm trang và huyền hoặc lạ kỳ…”.
(Trích truyện ngắn Sương phụ)
Nhân vật Linh trong “Sương phụ” không biết tác giả hư cấu bao nhiêu phần trăm, nhưng tôi đọc đến năm lần vì thích quá, Vân Linh yêu - lấy được người mình yêu, đó là hạnh phúc, vậy thì suốt một đời sống cho một tình yêu như thế là phúc phận, bởi theo người đọc thì trong suy nghĩ của Vân Linh - Bảo có chết bao giờ đâu mà anh chỉ thực hiện một phi vụ dài hạn ra ngoài quỹ đạo…
Có một truyện ngắn và một bút ký tôi vô cùng tâm đắc, đó là “Người đàn bà mặc áo lụa tím” và “Bội Hoàn”, hình như đó là hai cung bậc tình cảm, hai nỗi niềm đồng khí, đồng thanh giữa người sáng tạo và kẻ thưởng lãm. Tôi yêu “Người đàn bà mặc áo lụa tím” như yêu chính bản thân tôi và tâm sự tôi.
Còn với “Bội Hoàn”, có phải tác giả đã lột tả giùm tâm nguyện của một số chị em cầm bút, mà trong những cuộc họp mặt tâm tình cao đàm khoác luận, họ đã từng ao ước: Mỗi người sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ với chồng con, lúc ấy độ 5, 10 người cùng nhau lập một chốn nghỉ dưỡng, chốn ấy có hoa có nhạc, có thơ có hội hoạ, có tao nhân mặc khách sáng chiều ngâm vịnh… Vô hình trung tác giả Tim tím Huế đã xây dựng một không gian, một mô hình đúng như niềm mơ ước của chúng tôi.
Người đọc buồn theo truyện ngắn “Bâng khuâng chiều xuân” bởi một tình yêu trắc trở của một nhân vật xưng tôi, mà nguyên nhân là từ bà mẹ của anh chàng hoạ sĩ. Với cái gọi là “Nhân tướng học” bà đã phán một câu, mà trong hai lần đến chơi nhà anh cô gái đã được nghe:
… “Mi mà lấy hắn là đời mi tiêu, uổng công cha mẹ đẻ con ra, nuôi con cực khổ con ơi!
Anh cãi lại:
- Răng mà “tiêu” hả mạ?
- Rứa mi không thấy gò má hắn cao.
- Mạ cứ cho con lấy hắn coi thử con có chết không thì biết liền.
Tiếng mạ anh hốt hoảng:
- Ui cha! Đừng nói bậy con ơi! Thôi thôi không bàn cãi nữa mạ nói không là không.
Nghe được đến đó, tai tôi ù lên, tim tôi nhảy lung tung, mồ hôi vã ra, giận run người và quay quả rút lui, cuộc tình của tôi và anh bắt đầu sóng gió từ đấy…”
(Trích Bâng khuâng chiều xuân)
Ở Huế ngày xưa, lời phán quyết của các bậc trưởng thượng trong gia đình, gia tộc là một mệnh lệnh tuyệt đối… Vì thế mà có bao cuộc tình phải tan vỡ để kẻ cuối bãi người đầu sông và để rồi có bao cuộc hôn nhân đồng sàng dị mộng:
… “Trăm năm xót một đêm khuya
Khóc cười riêng giấc trăng chia vô thường”
(TN - KM)
Với truyện ngắn “Một thoáng hương xưa” có thể đó là các nguyên mẫu thật trong đời sống với những gặp gỡ, chia xa, tái ngộ trong quan hệ bạn bè dễ thương thường có trong từng ngăn ký ức của mỗi chúng ta, những kỷ niệm quá đẹp cho một thời tuổi dại…
Là một cô giáo dạy văn nhưng cuộc phối ngẫu với văn chương của Bùi Kim Chi hơi chậm so với các lớp đàn chị ở chuyên ngành văn học, song vẫn chưa muộn vì gừng càng già càng cay, sự chậm trễ đôi khi lại rất hữu ích, bởi thời gian là một bậc thầy, cho mỗi người vốn sống, sự trải nghiệm, sự trưởng thành thể hiện qua bút pháp, qua văn phong, điều này ta thấy rõ qua Tim tím Huế.
Nhận xét như vậy không có nghĩa là tác phẩm nào trong Tim Tím Huế đều hoàn thiện về kỹ năng, về cấu tứ, về các tuyến nhân vật của mỗi truyện, đâu đó người đọc vẫn gặp những sai sót về kỹ thuật, về sự dàn trải trần thuật quá nhiều của nhân vật như “Những nốt nhạc khởi đầu”, “Họa mi hót”…
Nhưng về tổng thể đấy là sự thành công khá cao của Tim tím Huế, của tác giả, của một cây bút nhuần nhị với chất giọng mượt mà hiền thục nhu mì. Chúng ta đón đọc những tác phẩm mới của Bùi Kim Chi như “Đôi mắt hình chiếc lá” với lời chúc mừng chị sẽ thành công nhiều hơn nữa trong văn nghiệp.
N.G.T.C
(SDB9/6-13)
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)
Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.
VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)
NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.
HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.
LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.
NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.
PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.
Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.
PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.
ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.
NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".
HOÀNG KIM DUNG (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)
PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.
ANH DŨNGLTS: Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.
SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.
NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?