“Tiếng lòng” của Phan Bội Châu đối với các cô hồn

15:26 31/07/2009
TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

Phan Bội Châu (Ảnh: chungta.com)

Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế” là một trong hai mươi sáu (1 trong 26) bài văn tế của Phan Bội Châu viết trong thời kỳ bị giặc Pháp giam lỏng ở Bến Ngự (1926-1940).

Cũng như một số trường hợp khác, bài văn tế này Phan Bội Châu viết theo yêu cầu của các giới đồng bào và thổn thức của nhà chí sĩ. Cho nên, vấn đề đặt ra cho tác giả là phải cất lên được “tấm lòng” của trăm họ và hoà vào đó là “tiếng lòng” của nhà văn đối với các cô hồn.

Ở Sào Nam, bất luận viết về một đề tài gì, một tác phẩm dù lớn hoặc nhỏ, tính mục đích của nhà văn đều ghi dấu ấn rất đậm nét. Dù nói về việc gì, phản ánh một cái gì, hay bộc lộ một tâm sự gì... cuối cùng cũng qui tụ lại vấn đề trung tâm của thời đại là: Nước mất, dân tộc bị gông xiềng nô lệ, cho nên phải cứu nước, cứu dân.

Đối với Phan Bội Châu, thời kỳ bị giam lỏng ở Huế, muốn thực hiện được điều đó thì khá dễ dàng về mặt tài năng chủ quan; nhưng lại rất khó khăn về hoàn cảnh. Bởi vì có sự theo dõi chặt chẽ của lũ mật thám chó săn xung quanh Cụ. Chính vì vậy mà tác giả phải nói quanh co, phải dùng hình tượng bóng gió để lọt qua được những cặp mắt cú vọ và lưỡi kéo kiểm duyệt của Xô-nhi (Sogny), tên mật thám khét tiếng thời đó. Mặt khác, phải đặt tác phẩm Phan Bội Châu trong thời đại - lịch sử để phẩm bình. Có như vậy ta mới lý giải được những thành công và thiếu sót của tác phẩm, cũng như tài năng và hạn chế của nhà văn.

Nhận thức như vậy để ta cùng gạt đi những lớp vỏ che đậy, những hạn chế tất yếu do hoàn cảnh lịch sử và hạn chế về thế giới quan và nhân sinh quan của nhà văn.

Thí dụ:
- “…Sống chết đã đành là số mệnh…
- “…Kẻ phúc dày, duyên tốt, nhởn nhơ lộc nước ơn vua…
- “…Thương mấy cụ khiên sơn nón dấu, nặng nợ cơm vua, áo chúa…” v.v…

Phần còn lại chủ yếu, cái cốt lõi của bài tế là nói về người đã khuất - ở đây là những cô hồn; và tình cảm xót thương của tác giả và người đang sống.

Cô hồn không phải những bóng ma xa lạ mà chính là “các vị bà con ta xưa”. Họ là những người dân của một đất nước độc lập, vốn có Tổ quốc, quê hương”

- Xứ Huế riêng nhà,
Trời Nam chung bóng…
Không thua kém gì các sắc tộc da vàng khác:

- “Mày mặt cũng trong hoàng chủng…
Họ sống bằng hai bàn tay lao động:
“Kẻ tay làm hàm nhai, hớn hở cá sông, thóc ruộng…”
ấm no trên đất nước Việt thân yêu và giàu lúa gạo, sản phẩm:
“Non nước ấy, một triêng hai thúng”.

Họ là con cháu của một dân tộc hiền lành, có truyền thống hoà bình và hữu nghị:
“Cha ông vẫn chẳng gì tội ác…
“Càn khôn chung tất thảy chở che…

Nói về cô hồn nhưng chính là Phan Bội Châu nói về dân tộc. Ông khẳng định truyền thống lao động và chiến đấu, truyền thống đoàn kết để dựng nước và giữ nước; khẳng định quyền bất khả xâm phạm về Tổ quốc giang sơn và quyền sống của con người Việt Nam.

Khơi dậy điều đó, không chỉ nhằm mục đích thức tỉnh, giáo dục lòng yêu nước cho người sống mà còn là lời phán xét của nhà chí sĩ, lời buộc tội kẻ đã gây ra cảnh máu xương:

“Trời sao ác nghiệt…!”
Trời ở đây chính là bọn cướp nước da trắng.

Với tài năng điêu luyện của một bậc thầy trong thể phú – văn tế, Phan Bội Châu đã tái hiện cảnh chạy giặc, sự chết chóc thê thảm do lũ giặc “cờ trắng” gây nên.

Từ việc khắc hoạ hình ảnh:
“Lố nhố trẻ dìu già, ông nách cháu, chân còn đi… đầu chốc lìa vai”.
đến nghệ thuật đối trong câu biền ngẫu:
“Oan uổng quá mấy ông trên võng…sống chẳng trọn đời;
Tội tình thay lũ bé trong nôi…chết đà trắng bụng”.
Cảnh chết chóc diễn ra trong thanh âm thật não nùng:
“Lao nhao con khóc mẹ, vợ kêu chồng, tiếng chưa ngớt…xương đà chất đống”

Tiếng kêu khóc hoà trong tiếng:
“…Trống giục, loa dồn…
“…lộn nhộn tiếng kèn pha tiếng trống”

Sự việc đã được cụ thể hoá bằng nghệ thuật hình tượng và thanh âm, và đã xảy ra trong một không gian nhất định từ:
“Thành cửa Nam qua cửa Bắc…
với sự chính xác của thời gian:
“Đêm hai mươi ba (23) ngày tháng Năm;
lúc:
“Canh ba tới canh năm…
và khi:
“Trời vừa tốt sáng…
đến:
“Ngày đà quá trưa…

Sức truyền của bài văn tế không những do ở tính chân thực của sự kiện, ở miêu tả, mà còn do ở tấm lòng tác giả. Tình cảm xót thương của nhà chí sĩ xuyên suốt tửng câu văn, đọng lại từng hình ảnh:

“Oan uổng quá, mấy ông trên võng…
“Tội tình thay, lũ bé trong nôi…”
và trào cả ra đầu ngọn bút:
…”Khách văn tự não nùng tình điếu đổ, gió sầu thấp thoáng dưới lầu thành;
“Chủ giang san chan chứa mối thương tâm, giọt lệ lan man trên lớp sóng…”
Tiếng gọi hồn trong phần kết thúc bài tế nhuộm đầy màu sắc thần bí và thật não nề, vang dội vào không gian. Và hồi âm của nó lại là “tiếng lòng” của Ông già Bến Ngự.

…“Đau đớn sau càng đau đớn trước, tình nhất sinh nhất tử, sơ khác gì thân;
…“Nếm lấy hơi xin nếm lấy lòng, nghĩa đồng chủng đồng bào, thác xem như sống.”

“Nếm lấy lòng” là sự giao cảm giữa người còn kẻ mất; là lời nguyền phát ra từ con tim người nghệ sĩ - chiến sĩ suốt đời ôm ấp và chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

“Văn tế cô hồn…” có buồn đau:
“Khúc tình chung khôn giọt đậm giọt phai…”
nhưng vẫn tin tưởng:
“…thác xem như sống, ước ao chí thành năng động…”
và giàu tính chiến đấu, tố cáo kẻ thù:
“Trời sao ác nghiệt!”

gọi hồn người chết, khí linh (thiêng) của núi sông phù hộ, tiếp sức cho người sống đấu tranh cho khát vọng sống còn của đất nước quê hương:
“Hỡi tinh linh các đấng, phù tài cho Tổ quốc trường tồn
và:       
“…ước ao chí thành năng động.”
Văn tế tất có cái bi ai. Song văn tế của Sào Nam vừa có cái bi, cái hùng… và cả cái lạc.

Chính vì vậy mà hàng năm, vào ngày tháng trên, hầu khắp các ngã ba, ngã tư trong Hoàng thành Huế và các vùng phụ cận đều đốt khói hương, vàng mã, cúng cho người xấu số. Trên đường Mai Thúc Loan gần cửa Đông Ba (Huế) “Miếu âm hồn” vẫn còn đó, lễ “Tế cô hồn…” lại diễn ra. Trước cỗ bàn bày biện theo tục lệ, trong khói toả hương trầm, bài “Văn tế cô hồn…” của nhà chí sĩ lại khắc đậm vào lòng người… Và ta nghe như có tiếng vọng giục giã của một lời thề: Oán thù này phải trả!!!

Huế, hè năm 2009
T.A.V
(245/07-09)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ TỰ LẬPTrong thời gian làm luận án ở École Normale Supérieure de Fontenay/ Saint Cloud , tôi được nghe một câu chuyện thú vị. Trong nhà giam nọ, đám tù khổ sai, sau mỗi ngày lao động như trâu ngựa dưới đòn roi của cai ngục, chỉ có một thú tiêu khiển là nghe một người trong bọn họ kể chuyện tiếu lâm.

  • HỒ THẾ HÀTrần Vàng Sao là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ anh là tiếng nói giàu nhiệt huyết, xuất phát từ đáy lòng, hướng đến mọi người bằng giọng điệu giãi bày, tâm tình, chia sẻ. Anh sáng tác không nhiều, nhưng mỗi tác phẩm của anh để lại dấu ấn thi pháp độc đáo, đặc biệt ở việc xây dựng tứ thơ và kiến trúc bài thơ, ở hình ảnh và sức liên tưởng bất ngờ.

  • NGUYỄN HUỆ CHI     Trần Thanh Mại (1908-1965) là một nhà văn xứ Huế, một tên tuổi trong giới nghiên cứu, phê bình và sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám. Những cuốn sách ông viết rải rác trong vòng 30 năm như Tuy Lý vương, Hàn Mạc Tử, Trông giòng sông Vị, Tú Xương con người và nhà thơ... đã từng gây được ấn tượng lúc mới ra đời và đến nay vẫn còn nhiều phần giá trị. Những phát hiện của ông về Hồ Xuân Hương, Miên Thẩm đã từng gây xôn xao một thời mà sự tiếp nối của người sau cũng chưa thể nói là đã vượt qua.

  • ĐẶNG TIẾNTừ điển Nghệ Thuật Hát Bội Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Lộc chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, ấn hành năm 1998, gồm non 700 trang khổ lớn 15x23cm, in đẹp, bìa cứng tổng hợp đầy đủ kiến thức về ngành ca kịch hát bội, còn gọi là hát bộ, hay tuồng, hay tuồng cổ.

  • THÁI DOÃN HIỂUGiữa ngổn ngang những dữ kiện, con số, tiền nong, ngành Ngân hàng Việt vẫn hào hiệp tặng cho thi đàn ra một hồn thơ tinh tế: Nguyễn Ngọc Oánh.Trong thi sĩ Nguyễn Ngọc Oánh có hai con người: một trẻ và một già!

  • NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1989, báo Văn nghệ tổ chức cuộc thi thơ kéo dài trong 2 năm, tôi có gửi 5 bài thơ dự thi. Thơ gửi đi rồi, chưa mong được giải, chỉ mong được in báo Văn nghệ một vài bài vì trước đó tôi cũng đã nhiều lần gửi báo Văn nghệ nhưng chỉ được in một bài thơ “Giọng Nghệ”.

  • TRẦN THÁI HỌC(Nhân đọc Sông Hương phê bình và đối thoại - Nxb văn hoá thông tin - 2003)

  • MAI BÁ ẤNNgoài sáng tác, hơn mười năm trở lại đây, Thanh Thảo còn xuất hiện với tư cách là một người viết tiểu luận - phê bình được bạn đọc rất chú ý bởi giọng văn sắc sảo với những phát hiện độc đáo, mới mẻ. Nhìn chung, phong cách viết tiểu luận-phê bình của Thanh Thảo khá nhất quán nhằm mục đích tìm ra cái hay cái độc đáo của tác phẩm văn học mà không ồn ào tranh luận, không nặng nề về lý thuyết nhưng có độ bền về tính triết lý.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNPhê bình văn học là một hình thái vận động của đời sống văn hóa văn học. Nó không phải là một thể loại văn học. Nó gắn bó huyết mạch tất yếu với vận động sáng tạo - hưởng thụ văn học.

  • HƯƠNG GIANG - PHẠM PHÚ PHONGLịch sử nói chung phán xét những gì đã qua, nhưng lịch sử nghệ thuật thì  phán xét những gì còn lại. (Thái Bá Vân)

  • VÕ TẤN CƯỜNGCon đường của thi ca và cái nhìn của nhà thơ thời hiện đại đang hướng tới tầm cao mới và cả chiều sâu thẳm bí ẩn của vô ngã ẩn khuất dưới bao biến động dữ dội của những thể chế chính trị, giáo lý và các phát minh khoa học kỹ thuật.

  • PHONG ĐIỆPXã hội hoá giải thưởng - và chuyện kiếm tiền “nuôi thơ” thời bão giá

  • CHÂU MINH HÙNGLối viết chỉ là Tự do trong một khoảnh khắc. Nhưng đó là một trong những khoảnh khắc có ý nghĩa nhất của Lịch sử, bởi Lịch sử luôn luôn và trước hết là một lựa chọn và những giới hạn của lựa chọn ấy.                                      (R. Barthes, Độ không của lối viết)

  • TRẦN THIỆN KHANHTích nhân/  dĩ thừa/  hoàng hạc khứThử địa/  không dư/  Hoàng Hạc lâuHoàng hạc/ nhất khứ/  bất phục phảnBạch vân/ thiên tải/ không du du…

  • PHẠM THỊ THÚY VINHThơ Lâm Thị Mỹ Dạ rất giàu hình ảnh. Thế giới hình ảnh trong thơ chị vừa đậm sắc màu hiện thực, ngồn ngộn hơi thở cuộc sống vừa mang tính biểu tượng cao. Điều đó đã thể hiện tài năng và sự khéo léo của nhà thơ, nhằm làm cho những bài thơ của mình không chỉ dừng lại ở những lời thuyết lí khô khan, trừu tượng. Thế giời hình ảnh bao giờ cũng gợi ra trong trí tưởng tượng của người đọc nhiều liên tưởng bất ngờ và thú vị, làm cho lời thơ thêm mượt mà, trong sáng.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   (Tiếp Sông Hương số 11-2008)Bản thể con người chỉ cấu trúc bằng cảm giác và những gì là biến tướng khả dĩ của cảm giác mà không từ bỏ cấu trúc thiên định bao gồm kết cấu thực và kết cấu ảo của cảm giác. Nếu hình dung kết cấu thực là trạng thái mô phỏng thế giới, nghĩa là cái quan hệ hấp dẫn giữa xung động thần kinh não bộ con người với xung động tiếp nhận thế giới, thì chúng ta hình dung được kết cấu ảo chỉ là sản phẩm thuần tuý do xung động nội tại của thần kinh não bộ con người.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGPhân tâm học ra đời trong ánh bình minh của thế kỷ hai mươi. Ảnh hưởng của nó đối với sáng tạo và phê bình văn học khởi đi từ cuốn “Diễn dịch các giấc mơ” của Freud và được nối dài sau đó bởi nhiều công trình của các tác giả khác nhau.

  • CAO HUY THUẦNToàn cầu hóa đang là một xu thế, một hiện tượng rộng lớn bao trùm khắp thế giới, không chỉ về kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa và đời sống. Toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa đã trở thành vấn đề thời sự của thế giới. Trong bối cảnh đó, yêu cầu gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một đòi hỏi cấp thiết, có tính sống còn của mỗi dân tộc khi phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.Sông Hương xin giới thiệu một phần bài viết của Cao Huy Thuần như một góc nhìn thú vị về những vấn đề gai góc của thời đại.

  • NGUYỄN VĂN DÂN(*)LTS: Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ 2 của Hội Nhà văn Việt Nam diễn ra 2 ngày 4 và 5 tháng 10 năm 2006 đã khép lại nhưng âm vang của nó vẫn còn “đồng hiện” theo 2 cực... buồn vui, cao thấp. Song, dù sao nó cũng đã phản ánh đúng thực trạng, đúng “nội tình” của đời sống văn học nước nhà.

  • PHẠM PHÚ PHONGMấy chục năm qua, người đọc biết ông qua những kịch bản thơ, những bài thơ viết về tình bạn, tình yêu; về những cuộc chia tay lên đường ra trận; về đất và người Hà Nội đầy khí thế hoành tráng của tâm thế sử thi; nhưng cũng có khi bí hiểm, mang tâm trạng thế sự buồn cháy lòng của một người sống âm thầm, đơn độc, ít được người khác hiểu mình.