“Sông Hương” với tôi

15:54 31/03/2015

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM NGÀY THÀNH LẬP LIÊN HIỆP CÁC HỘI VHNT THỪA THIÊN HUẾ

NGUYỄN KHẮC PHÊ

Từ trái qua: Nhà văn Nguyễn Quang Hà, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, họa sĩ Đặng Mậu Tựu, nhà thơ Ngô Minh, các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Nhất Lâm, Nguyễn Khắc Phê tại mộ nhà thơ Phùng Quán - Ảnh: internet

Có thể nói, tôi là người có “duyên nợ” với Sông Hương. Trước hết là với con sông như là quà tặng của tạo hóa, chảy ngang thành phố Huế mang trong mình nhiều Di sản văn hóa được UNESCO công nhận. Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh tại Huế, khi thân phụ đang ngồi ghế Phủ Doãn bên dòng sông Hương. Dinh Phủ Doãn, nay là trụ sở của Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế. Gần đây, tôi đã tìm thấy tấm bia ghi danh các vị giữ chức Phủ Doãn thời Nguyễn trong ngôi miếu nhỏ phía sau Trụ sở UBND tỉnh, trên đó có ghi tên thân phụ tôi…

Sau ngày thống nhất đất nước, rồi Bình Trị Thiên hợp nhất thành một tỉnh, năm 1976, từ Hội Văn nghệ Quảng Bình, tôi chuyển vào Huế. Do đã làm Tập san Văn nghệ Quảng Bình mấy năm, vào Huế, tôi được phân công làm Tập san “Văn nghệ Bình Trị Thiên.” Đó là những ngày Bình Trị Thiên mới “sum họp một nhà”, không khí thật vui vẻ, đông đúc và có thể nói là hùng hậu. Xuân Hoàng, Lương An, Hoàng Phủ ngọc Tường, Nguyễn Khoa Điềm, Tô Nhuận Vỹ, Phạm Đăng Trí, Xuân Đàm, Trần Hữu Pháp, Lâm Mỹ Dạ, Lê Thị Mây, Hà Khánh Linh, Bửu Chỉ, Võ Quê, Thái Ngọc San, Nguyễn Đắc Xuân... Một danh sách thật dài... dài như là tỉnh Bình Trị Thiên, khó mà kể đủ. Hồi đó, cũng chưa ai bận tâm nhiều đến chuyện chức tước, chia việc phân công nhau mà làm theo khả năng từng người. Cũng vì thế mà gần đây (tháng 10/2014) khi đưa nhà báo Dương Phước Thu mượn chồng “Văn nghệ Bình Trị Thiên”, anh không thấy ghi tên ai “Tổng” ai “Phó”, hay Trưởng Ban này nọ trên các số Tạp chí, tôi không thể trả lời được.

Tập san “Văn nghệ Bình Trị Thiên” trong hơn 7 năm tồn tại, với 30 số, khổ 19x27cm, số trang không cố định, thường từ 100 đến 140 trang (số 1 ra vào tháng 7/1976 và số cuối ra vào khoảng tháng 4/1983). Dù lực lượng có thể nói là hùng hậu, sáng tác, nghiên cứu, phê bình được đăng tải cũng đa dạng và không ít bài hay, nhưng do vẫn theo cách làm báo thời “bao cấp”, ít năng động, phong trào văn nghệ thì chưa thấy dấu hiệu đổi mới, nên từ hình thức đến nội dung gần như là “đồng dạng” với tập san văn nghệ các địa phương trong cả nước, ngoại trừ bìa số 1 của họa sĩ Bửu Chỉ vẽ nhà máy với ống khói mà trông như một hầm mộ, bị phê phán, công kích khá nặng nề. Chuyện không vui rồi cũng qua, mặc dù dẫn đến một cách “tiếp thu” cũng chẳng vui gì khi Bửu Chỉ vẽ bìa số 3 chỉ toàn một màu đỏ rực! Cũng có thể nói đây “tín hiệu” báo trước về những “sự cố” của “Sông Hương” về sau.

Hình minh họa cho tập san Văn nghệ Bình Trị Thiên - Ảnh: NKP


Tôi không giữ được toàn bộ các số “Văn nghệ Bình Trị Thiên”, chỉ thấy số cuối là số 28, ra tháng 1/1983 và có quảng cáo số 29 mừng Tết Quý Hợi 1983. Trong giai đoạn này nhạc sĩ Trần Hoàn làm Chủ tịch và nhà thơ Xuân Hoàng làm Phó Chủ tịch Hội. Trong số 25 có đưa tin họp Ban Chấp hành Hội bổ sung nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm vào Ban Thường vụ Hội.

Cho đến ngày 17/12/1982, tôi được lĩnh trọng trách đi Hà Nội, mang theo công văn của Thường vụ Tỉnh ủy Bình Trị Thiên chính thức đề nghị Trung ương cho “Sông Hương” ra đời.

(Việc này cũng như không khí ngày vui khi ra “Sông Hương” số 1 (tháng 6/1983), tôi đã thuật lại trong một bài viết nhân kỷ niệm 5 năm “Sông Hương” ra số đầu, nên sau đây chỉ “bổ sung” một số điều chưa kể.)

Có một chi tiết hình như ít người để ý là mãi đến đầu tháng 9/1983, Đại hội Văn nghệ Bình Trị Thiên lần thứ hai mới tổ chức (nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm được cử làm Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký), nhưng từ tháng 3 đã có giấy phép ra Tạp chí Sông Hương với Tổng Biên tập là Nguyễn Khoa Điềm, tôi làm Phó; mà theo lệ thường thì phải sau Đại hội, Ban Chấp hành mới cử ra Tổng Biên tập. Có sự “phá lệ” này vì nhu cầu ra một tờ Tạp chí văn hóa - văn nghệ của Huế vượt thoát sự bó hẹp của một Hội Văn nghệ địa phương đã nung nấu trong anh chị em văn nghệ sĩ từ lâu. Và cũng từ lâu, Huế là một vùng đất có truyền thống báo chí, có nhiều tờ báo đứng chân ở Huế nhưng “nói chuyện” cả nước. “Sông Hương” sớm có tiếng vang, một phần lớn là nhờ nhận thức được điều đó…

…Có một kỷ niệm vui vui với Trịnh Công Sơn về bài hát “Huyền thoại Mẹ” in “Sông Hương” số 12 - kỷ niệm 10 năm giải phóng Huế (1975 - 1985). Trước đó, trong một chuyến công tác vào thành phố Hồ Chí Minh, tôi đến thăm Trịnh Công Sơn tại 47 Duy Tân, nghe Sơn hát “Huyền thoại Mẹ”, tôi liền xin 1 bản về in “Sông Hương”. Đây là lần công bố đầu tiên bài hát này. Khi tạp chí in ra, có tiếng xì xào rằng bài hát “không rõ lập trường, không biết tác giả ngợi ca người mẹ ở bên nào cuộc chiến…”. Ý kiến này không có ai “tiếp âm, phóng đại” lên, còn bài hát thì nhanh chóng được phổ biến, được nhiều người hoan nghênh, nên rồi cũng yên.

Thời Nguyễn Khoa Điềm làm Tổng Biên tập chưa có “không khí” Đổi Mới náo nhiệt, nên cũng ít “sự cố”. Hình như chỉ có “vụ” nhiều bạn đọc ở Huế phản đối gay gắt tiểu thuyết “Học phí trả bằng máu” của Nguyễn Khắc Phục khiến Nguyễn Khoa Điềm khó xử. Tôi còn nhớ khi “Sông Hương” định đăng bài của Hoàng Dũng phê phán cuốn tiểu thuyết này, Nguyễn Khoa Điềm đã có một cử chỉ thận trọng hiếm thấy là đạp xe đến Khu tập thể Đống Đa, trèo lên gác 4 để “tham khảo” ý kiến của “một người giúp việc” là tôi! Nhân đây, cũng nên nói luôn việc nhà văn TĐK sau này viết bài chê trách Nguyễn Khoa Điềm chuyện nọ, việc kia. Như tôi được biết, Nguyễn Khoa Điềm không liên quan gì đến “vụ” này.

Nguyễn Khoa Điềm làm Tổng Biên tập đến số 18 thì được cử đi học dài hạn (hình như là ở Trường Nguyễn Ái Quốc); nhà văn Tô Nhuận Vỹ kế tục, còn tôi vẫn làm Phó. Nhà văn Nguyễn Quang Lập, trong một bài viết về tôi có nói rằng tôi là một người “chuyên” làm “Phó” cho người này, người kia mà vẫn vui vẻ. Thì xuất thân là “quan tham lục lộ”, lí lịch lại “đen” như thế, làm chi dám mơ ước cao xa, dù chỉ trong làng văn. Vậy mà khi Tổng Biên tập Tô Nhuận Vỹ hăng hái phất cờ Đổi Mới, bị Tuyên huấn Trung ương và Tỉnh ủy “huýt còi” thì tôi lại được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ cử làm Tổng Biên tập!

Nói gọn một câu như thế, nhưng đây là giai đoạn “nóng” nhất, nhiều biến động nhất của “Sông Hương”. Nhìn bề ngoài, về quy mô, cơ chế, từ khi Tô Nhuận Vỹ làm Tổng Biên tập (từ số 19 - Tháng 5 - 6/1986), có 2 “sự kiện” nổi bật. Một là Tòa soạn được rời khỏi căn phòng 20 mét vuông trên gác nhà 26 Lê Lợi, sang nhận Trụ sở mới tại số 5 Đinh Tiên Hoàng (trước cửa Thượng Tứ), rồi tiếp theo là trở thành một đơn vị hạch toán độc lập; hai là việc chia tỉnh Bình Trị Thiên thành 3 tỉnh từ ngày 10/7/1989. Đó cũng là thời điểm kết thúc nhiệm vụ Tổng Biên tập của Tô Nhuận Vỹ với số 39 (ra tháng 8 - 9/1989)…

Sau đó, coi như “Sông Hương” tự đình bản gần nửa năm, mãi đến tháng 1/1990 đầu năm Canh Ngọ, “Sông Hương” mới ra tiếp số 40, ghi là 1 (40), hàm ý mở đầu một chặng mới. Quả là về luật pháp, do chia tỉnh, Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế được thành lập, nên tờ Tạp chí phải được tổ chức lại. Trong lời “Cùng bạn đọc” đầu số 40, chỉ nói vắn tắt là do “phải tiến hành đăng ký giấy phép mới”. Tôi không giữ tờ giấy phép được cấp lại ngày 20/12/1989, nên không rõ trên đó có ghi tên người chịu trách nhiệm không? Chỉ biết trên cả hai số 40 và 2 (41) (Tháng 2 - 3/1990) và số 3 (42) (tháng 4 - 5/1990), số 4 (43) (tháng 6/1990) không ghi tên Tổng Biên tập và trên trang “Tin văn hóa văn nghệ” cuối số 41, cho biết ngày 9/2/1990, Ban Thư ký Hội đã quyết định phân công hai Ủy viên BCH là Nguyễn Khắc Phê và Thái Ngọc San làm trợ lý nội dung cho Tổng Biên tập (mà chẳng rõ Tổng Biên tập là ai!)…

Đó là sơ lược “lịch trình” đoạn cuối “sự cố” Đợt 1 của “Sông Hương”. Thực ra thì “Sông Hương” bắt đầu bị soi xét và phản ứng khi cho đăng mấy bài bút ký của Nguyễn Quang Hà tố cáo tệ mất dân chủ và tiêu cực ở các địa phương. Tuy vậy, đây mới chỉ là phản ứng với vụ việc, chi tiết cụ thể, nhưng đến bài thơ “Người đàn ông 43 tuổi nói về mình” của Trần Vàng Sao đăng trong số 32 (tháng 7/1988), số kỷ niệm 5 năm “Sông Hương” thì luồng ý kiến phản ứng theo lối suy diễn, quy kết dữ dội...

Tuy vậy, kiến trúc sư Nguyễn Trọng Huấn, từ thành phố Hồ Chí Minh gửi thư ra, có đoạn: “…Tôi coi đây là bài thơ lớn và hay nhất trong năm nay…”. Gần đây, bài thơ được in lại nhiều nơi và cũng có ý kiến tương tự như anh Nguyễn Trọng Huấn.

Cũng trong số 34, tôi viết bài “Vì sao tôi chọn thơ Trần Vàng Sao?”, vừa tỏ quan điểm của mình, vừa phân định trách nhiệm rõ ràng, do lúc đó, Tổng Biên tập Tô Nhuận Vỹ và nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đi thăm Bê-lô-rut-xia và Tạp chí Nhô-man kết nghĩa, số 32 tôi và Thư ký Tòa soạn Thái Ngọc San là người chịu trách nhiệm cuối cùng…

Cũng nên kể sơ qua lễ kỷ niệm 5 năm “Sông Hương”. Như đã nói ở trên, trong thời gian chuẩn bị lễ kỷ niệm, Tổng Biên tập Tô Nhuận Vỹ đi Liên Xô, nên tôi cùng Thư ký Tòa soạn Thái Ngọc San và Trưởng Ban Trị sự Võ Mạnh Lập phải “gánh” toàn bộ công việc. Tôi là người dễ ăn ngủ, nhưng lần đầu tiên trong đời, tôi đã thức gần như trắng đêm, vì dù sao mình cũng bị đặt ở cương vị “Tổng chỉ huy” buổi lễ. Gọi là “Tổng chỉ huy”, vì tại Tòa soạn có một bản đồ thể hiện các mũi “tiến công” - đó là các vị khách sẽ đến từ Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, rồi từ Liên Xô (đại diện Tạp chí Nhô-man kết nghĩa và nữ phóng viên ban Tiếng Việt Đài Mas-cơ-va) và cả từ Pháp (anh Lê Huy Cận và hình như có cả nhà nghiên cứu lịch sử Lê Thành Khôi nữa…); rồi các cộng tác viên từ Quảng Bình, Quảng Trị thân thiết nữa… - liệu các “mũi tiến công” đó có hướng nào bị trục trặc hay bị “sự cố” gì không?

Thật may là mọi chuyện xuôi lọt và buổi lễ đã diễn ra thân mật và long trọng tại Hội trường Viện Đại học Huế. Cũng may là sau buổi lễ, vụ việc bài thơ của Trần Vàng Sao mới xảy ra!...

Sau khi Tổng Biên tập Tô Nhuận Vỹ từ chức, rồi chuẩn bị tổ chức Đại hội Văn nghệ tỉnh cử Tổng Biên tập mới, nên “Sông Hương” đến đầu năm 1991 mới tái ngộ bạn đọc. Đó là số 1 (44) - Tết Tân Mùi 1991, với trang bìa của Bửu Chỉ vẽ con dê sừng ôm mặt trời, bụng “ôm” vòng tròn biểu tượng âm-dương, nhưng cũng không ghi tên Tổng Biên tập. Thực ra là tại bài “Ghi ở Đại hội” đã cho biết, sau khi Đại hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế lần thứ nhất họp từ 18 - 19/12/1990, Ban Chấp hành Hội họp phiên đầu tiên ngày 24/12/1990 đã cử tôi làm Tổng Biên tập với số phiếu 100%, nhưng Tạp chí số 1 (44) và cả 2 (45) ra tháng 3/1991 cũng không ghi Tổng Biên tập vì phải chờ sự chấp thuận chính thức của Ban Tuyên Huấn và Bộ Văn hóa - Thông tin. (Cũng vì thế mà trong cuốn sách công phu “Lịch sử báo chí Huế” của Nguyễn Xuân Hoa - Nxb. Thuận Hóa, 2013, ghi rằng Nguyễn Khắc Phê chỉ làm Tổng Biên tập 2 số 46 và 47!).

Anh em trong Tòa soạn và cả phong trào văn nghệ Thừa Thiên Huế vừa mới trải qua nhiều tháng ngày khốn khổ vì kiểm thảo lên xuống, đang hào hứng bước qua giai đoạn mới, quyết tâm xuất bản “Sông Hương” mỗi tháng một kỳ, tôi cũng như Ban Biên tập đều không muốn “gây sự”, bài vở số 1 và 2 (tức số 44 và 45) nói chung hiền lành; lại có nhà “Huế học” Nguyễn Đắc Xuân làm Phó Tổng Biên tập, nên dung lượng bài về văn hóa Huế khá đậm đặc (nào là “Bóng giai nhân - Một đêm trên sân khấu Huế” của Yến Lan, rồi “Nghệ thuật thơ Nguyễn Khoa Vy qua Thảo Am thi tập”, “Số phận của những khẩu thần công thời Nguyễn”, rồi hỏi chuyện Bửu Ý, “Chuyện cũ Cố Đô”, “Chè hạt sen”…).

Dù sao thì tôi cũng có lỗi với những bạn viết, bạn đọc yêu “Sông Hương” là đã để cho tờ Tạp chí phải “nghỉ giải lao” trong hơn nửa năm trời! Chính vì thế mà trong bài “chân dung tự họa” nhân mình trên 70 tuổi (“Những nút số 9 trong đời tôi” - Tản văn chọn lọc, Nxb. Văn nghệ TP. HCM), tôi đã viết: “…9 tháng làm Tổng Biên tập “Sông Hương”, nếu chín chắn hơn, đừng nóng vội và khôn khéo một chút để làm được 9 năm chẳng hạn, thì có “oách” hơn không?” Thực ra, đó là nói cho vui, chứ cái chức trách Tổng Biên tập một tờ Tạp chí địa phương - cho dù là tờ “Sông Hương” ít nhiều có tiếng vang trong nước - cũng có chi là “oách”; quyền lợi chẳng có gì mà cái cảnh “trên đe dưới búa”, làm sao cho bạn đọc và cộng tác viên thỏa mãn, nhưng không bị các cơ quan “chức năng” bắt bẻ “thổi còi” thì quá ư khốn khổ. Vì vậy, với góc độ riêng tư, phải thành thật nói rằng: May nhờ “thoát” khỏi chức vụ Tổng Biên tập “Sông Hương”, tôi mới có thời gian, có điều kiện để sáng tác một số tiểu thuyết ít nhiều được dư luận chú ý như “Thập giá giữa rừng sâu”, “Biết đâu địa ngục thiên đường”…

N.K.P
(SH313/03-15)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN THỊ KIÊN TRINH

    Mùa hè năm nay tôi có dịp trở lại Sài Gòn. Thành phố với bao đổi thay nhưng tôi chưa kịp nhận thấy hết bởi thời gian tôi lưu lại Sài Gòn quá ngắn ngủi.

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG

    Cũng lạ cho cái xứ Huế của tôi, cái chi cũng khác hơn thiên hạ. Nắng thì nắng cháy da phỏng trán, mưa thì mưa thúi đất thúi đai, dầm dề không dứt. Vài ba năm lại một trận lụt, trận bão to đùng.

  • BÙI KIM CHI

    “Tháng 7 nước nhảy lên bờ”. Mà lên bờ thiệt. Mưa. Mưa. Mưa… kéo dài lê thê. Lúc đầu nhỏ sau lớn dần. Nặng hạt. Xối xả. Cây cối trong vườn ngả nghiêng theo mưa và gió. Cây Lựu trước sân nhà tôi tơi tả. Trời tối dần. Mưa càng lúc càng to. Ào ào như thác đổ. Mưa suốt đêm. Sấm đất cuốn vào mưa. Ầm ầm. Ào ào. Âm thanh rộn rã…

  • Khi những giọt mưa ngâu tháng bảy bất ngờ trở về, làm xao động cả bầu trời mệt mỏi đang chìm lặng trong lòng sông Hương, Huế bỗng rùng mình chợt tỉnh cơn mê mùa hạ. Đó cũng là thời khắc mùa Vu lan đang về trên đất trời cố đô.

  • Hồi còn học ở Trường Đại học Sư phạm Huế, tôi có hai người bạn, hợp thành một nhóm, thường uống rượu với nhau khi vui cũng như khi buồn.

  • LTS: Tác giả của câu chuyện dưới đây, sinh ra và lớn lên ở làng quê Triều Sơn Nam, xã Hương Vinh, Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Anh sinh ra trong sự oan nghiệt khủng khiếp của cuộc sống khi buổi sáng mẹ anh quằn quại nghe tin đau xé mất chồng, buổi chiều mẹ đón nhận tiếng khóc chào đời của anh.

  • NGUYỄN LỆ BA

    Gia phả họ Nguyễn Quang ghi chép, tổ tiên chúng tôi là những người đã ra đi từ đất Huế. Thuở dong buồm về phương Nam đi tìm đất mới, những lưu dân đầu tiên đến dựng làng lập ấp trên vùng sông nước quê tôi chỉ vỏn vẹn vài dòng họ với đôi ba chục con người.

  • BÙI KIM CHI

    Đã có một lần tôi được trở về thăm Huế vào một mùa trăng. Cảnh vật thiên nhiên trời ban riêng cho Huế làm Huế duyên dáng và đẹp lạ lùng vào những đêm trăng. Trăng Huế vì thế mà có nét đẹp rất riêng, là lạ, duyên dáng, lộng lẫy và quyến rũ trong phong cảnh vừa thơ, vừa duyên và lãng mạn của trời đất Huế về đêm.

  • NHÂN KỶ NIỆM 50 NĂM BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC VỊ PHÁP THIÊU THÂN

    NGUYỄN BỘI NHIÊN

  • Một nam sinh như tôi lại học trường nữ trung học Đồng Khánh (trường THPT Hai Bà Trưng hiện nay), có thể một số người cho đó là chuyện lạ đời. Nhưng đấy lại là sự thật 100%! Tuy tôi chỉ học ở trường Đồng Khánh một năm lớp năm bậc tiểu học (bây giờ là lớp 1) vào khoảng những năm cuối thập kỷ 40 đầu thập kỷ 50 của thế kỷ trước. Nhưng không hiểu tại sao tôi lại còn nhớ nhiều những kỷ niệm về năm học đầu đời ấy mãi tới tận bây giờ.

  • TRIỆU BÔN
             Hồi ký

    Mùa mưa năm 1968 ở mặt trận đường Chín - Khe Sanh, trung đoàn 246 chúng tôi được gọi đùa là trung đoàn hai bốn đói. Ngày ngày chúng tôi sống bằng ba nguồn chính: thịt thú rừng, rau môn thục, và đỗ xanh.

  • NGUYỄN MẠNH QUÝ

    Có lẽ bởi một nỗi niềm đau đáu về quê hương, nơi mình được sinh ra và chắt chiu nuôi dưỡng trong từng hạt cát, từng trận mưa dầm dề thúi trời thúi đất hay nắng lửa trên cồn khô cát cháy, mà những con người ở đây sẵn mang một tấm lòng lồng lộng gió trời trải đi khắp muôn phương...

  • BÙI KIM CHI

    Tôi đang đứng ở đây. Bến xe đò Đông Ba của thế kỷ trước. Bùi ngùi. Xúc động. Bến xe đã không còn. Thật buồn khi nơi này đã vắng bóng những chiếc xe đò dân dã, thân thương thuở ấy cùng những tà áo trắng học trò dung dị với giọng Huế trong trẻo ơi ới gọi nhau lên xe kẻo trễ giờ học.

  • NGUYỄN VĂN UÔNG
                         Tùy bút

    Tuổi càng cao càng có nhiều nỗi nhớ vu vơ. Tôi đang trong tình trạng đó. Nhớ cồn cào đến xao xuyến là mỗi dịp xuân về: Nhớ Tết quê tôi. Nhớ tuổi thơ tôi và nhiều nỗi nhớ khác nữa.

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG

    Thuở nhỏ, tôi thường trốn ngủ trưa đi nghe hát vè. Ở Huế lúc ấy gọi là nói vè, như theo tôi phải gọi là hát vè thì đúng hơn, bởi người hát có bài có bản, có giai điệu, trầm bổng, có cả nhạc cụ.

  • HỒ XUÂN MÃN
    (Nguyên UVTƯ Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế)

    Năm 1973, để chuẩn bị cho ký kết hiệp định Paris, Khu ủy và Quân khu Trị Thiên - Huế chủ trương tổ chức các lực lượng (bao gồm cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) tổ chức đánh chiếm các căn cứ và phân chi khu địch để giành đất, nắm dân, cắm cờ giành quyền làm chủ.

  • TRẦN THỊ NHƯ MÂN

    Tôi sinh ra trong gia đình quan lại, đã mấy đời làm quan với triều đình Huế(1). Khi tôi lớn lên thì chế độ cai trị của thực dân Pháp đã bước vào giai đoạn ổn định sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Chiếc ngai vàng của nhà Nguyễn từ nay trở đi chắc không còn phải chịu những cơn sóng gió đáng kể chi nữa.

  • HUY CẬN - XUÂN DIỆU
          Trích "Hồi ký song đôi"

    Tháng 8 năm 1928 cậu tôi được lệnh của Sở học chính Trung kỳ đổi về Huế làm hiệu trường trường tiểu học Queignec ở phố Đông Ba.

  • LÊ QUANG KẾT
             Bông hồng dâng mẹ 

    Vua Tự Đức - ông vua tại vị gặp cơn biến động trong lịch sử dân tộc, sinh thời nhà vua đã tán dương công ơn mẹ: “Nuôi ta là mẹ, dạy ta cũng là mẹ: Mẹ là Thầy vậy. Sinh ra ta là mẹ, hiểu ta cũng là mẹ: Mẹ là Trời vậy”.

  • TRẦN HOÀN
                Hồi ký

    Năm 1941 thi vào trường Quốc Học, tôi đỗ vào loại khá nhưng chưa đủ mức để được cấp học bổng toàn phần.