“Sông côn mùa lũ” - một bộ tiểu thuyết công phu

08:55 25/03/2010
NGUYỄN KHẮC PHÊBộ trường thiên tiểu thuyết “Sông Côn mùa lũ”(*) của nhà văn Nguyễn Mộng Giác, được bạn đọc chú ý trước hết vì bề dày 4 tập 2000 trang với nhân vật trung tâm là người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ; sau nữa, đây là tác phẩm văn học dày dặn nhất của một Việt kiều được xuất bản trong nước.

Được biết tác giả hoàn thành bản thảo tại Sài Gòn năm 1981, nhưng ông hiện đang sống ở Mỹ. Riêng với bạn đọc ở Huế, cuốn sách được quan tâm hơn vì “Sông Côn mùa lũ” đã dành nhiều trang tái hiện cuộc sống và bối cảnh lịch sử ở Huế những năm cuối thế kỷ 18 mà trọng tâm là những lần Nguyễn Huệ kéo quân ra Phú Xuân rồi lên ngôi hoàng đế tại núi Bân...; hơn nữa, tác giả tuy là người cùng quê với Nguyễn Huệ, nhưng lại có duyên nợ với Huế - ông là rể của một gia đình dòng họ Nguyễn Khoa nổi tiếng.

“Sông Côn mùa lũ” gồm 101 chương, chia làm 7 phần lớn (1- Về An Thái; 2- Tây Sơn thượng; 3- Hồi hương; 4- Phương Nam; 5- Vượt đèo Hải Vân; 6-Phú Xuân; 7- Kết từ), mở đầu năm 1765 khi hai anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ theo học giáo Hiến - một nhà nho vừa trốn nạn Trương Phúc Loan chuyên quyền, từ Phú Xuân lánh vào quê vợ (An Thái, Quy Nhơn) và kết thúc năm 1792 khi Nguyễn Huệ mất, An (con giáo Hiến, người yêu của Nguyễn Huệ) ra Phú Xuân dự đám tang vua Quang Trung. Có thể nói, tác giả “Sông Côn mùa lũ” đã mượn câu chuyện thăng trầm, tan hợp đầy sóng gió của gia đình ông giáo Hiến và gia đình ba anh em Tây Sơn để tái hiện lịch sử dân tộc ta trong suốt gần ba thập kỷ cuối thế kỷ 18, chứ không chỉ miêu tả cuộc khởi nghĩa Tây Sơn và những chiến công của Nguyễn Huệ.

Nhà nghiên cứu Mai Quốc Liên và nhà thơ Đỗ Minh Tuấn - những người góp nhiều công sức để “Sông Côn mùa lũ” đến tay bạn đọc Việt Nam, trong lời giới thiệu bộ tiểu thuyết này đều đánh giá cuốn sách là “hay và hấp dẫn”, “đáng mặt là tiểu thuyết theo cái nghĩa cổ điển của từ này”. Đỗ Minh Tuấn viết: “Nguyễn Mộng Giác đã tỏ ra là một ngòi bút tiểu thuyết lịch sử xuất sắc khi phân tích và tái hiện huyền thoại lịch sử bằng cái nhìn văn hóa và cái nhìn thế sự. Những chuyện tình của Nguyễn Huệ, những bê bối của vương triều, những cưu mang nghĩa hiệp và bối rối cũng như những sóng gió gia đình, những tâm sự buồng the không làm mất đi ánh hào quang của người anh hùng, mà trái lại, làm cho Nguyễn Huệ trở nên lớn lao hơn, gần gũi ta hơn như một con người cụ thể đầy những lo toan trần thế và đầy thủy chung ân nghĩa.” Những dòng này được in ở bìa 4 của cả bộ sách, dễ tạo nên ý nghĩ đây chỉ là cách giúp “quảng cáo” cho việc phát hành cuốn sách. Thực ra, những “phẩm chất” mà người giới thiệu đề cập đến đều hiện diện trong “Sông Côn mùa lũ”, duy mức độ thì không hẳn đã là “xuất sắc” và toàn bích.

Ảnh: kythuatdanang.jimdo.com


Điều đáng trân trọng nhất qua “Sông Côn mùa lũ” là sự nghiêm túc, công phu và tâm huyết của tác giả. Trong điều kiện sáng tạo không hẳn là thuận lợi (xin lưu ý là tác giả đã viết tại Sài Gòn từ 1977-1981, trước lúc phải di cư sang Mỹ), chỉ riêng việc hoàn thành được 2000 trang viết với cả trăm chương hồi lớp lang mạch lạc, cả trăm nhân vật vào ra tương đối hợp lý và không nhầm lẫn, trong đó có rất nhiều nhân vật lịch sử từng được nhiều sử sách nói đến như anh em nhà Tây Sơn, Nguyễn Hữu Chỉnh, Trần Văn Kỷ, La Sơn phu tử, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Ngô Văn Sở, Bùi Đắc Tuyên... đã được dựng lại trên cơ sở đánh giá một cách công bằng và khoa học, đủ thấy công sức lớn lao mà ông đã bỏ ra. Danh mục trên bốn mươi đầu sách tham khảo cũng cho thấy tác giả đã rất công phu sưu tầm tài liệu. Nhiều văn bản quan trọng liên quan đến giai đoạn lịch sử này như Hoàng Lê nhất thống chí, La Sơn phu tử (của Hoàng Xuân Hãn), Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm... cho đến những cuốn sách nghiên cứu về Nguyễn Huệ gần đây, được ông trích dẫn hoặc mượn để xây dựng cốt chuyện đã bảo đảm cho tính chân thật lịch sử của tác phẩm. Cả những chi tiết nhỏ như mức thu thuế người dân, cách bắt lính thời đó... tác giả đều căn cứ vào tư liệu lịch sử.

Tuy nhiên, thái độ nghiêm túc tôn trọng lịch sử chưa đủ tạo nên một tác phẩm văn học xuất sắc. Nhà nghiên cứu Mai Quốc Liên, khi chứng minh “phẩm chất văn học” của “Sông Côn mùa lũ”, đã chỉ ra một cách đúng đắn những sáng tạo của tác giả: đó là sự phong phú, vẻ đẹp “Những tình cảm, những thôi thúc nội tâm, những suy tưởng, những quan hệ giữa con người và con người” của Nguyễn Huệ và các nhân vật lịch sử khác, lần đầu bạn đọc được biết; đó là tuyến nhân vật hư tưởng như cô An, người yêu Nguyễn Huệ, anh cô An và cả gia đình ông giáo Hiến...

Như vậy, theo nhà nghiên cứu, “Sông Côn mùa lũ” đã có cả hai phẩm chất của một tiểu thuyết lịch sử thành công. Nhưng theo tôi, sự thành công của cả hai mặt đó cũng chỉ ở mức độ hạn chế.

Có thể là tôi đã hy vọng quá nhiều khi nâng bộ sách đồ sộ, in đẹp và đọc những lời giới thiệu. Dù biết tác giả không chỉ viết về phong trào Tây Sơn-Nguyễn Huệ, nhưng một tiểu thuyết lịch sử viết về mấy thập kỷ cuối thế kỷ 18, tác giả lại chọn nhân vật trung tâm là Nguyễn Huệ, thì chỉ riêng về sự lựa chọn đề tài và các sự kiện lịch sử, cuốn sách chưa đạt đến sự cân xứng cần phải có. Phần viết về gia đình ông giáo Hiến và giai đoạn anh em nhà Tây Sơn khởi nghiệp quá dài so với những trang dành cho sự nghiệp của Nguyễn Huệ. Chiến thắng Rạch Gầm-Xoài Mút và chiến công đại phá quân Thanh mà chỉ diễn tả ngắn ngủi qua mấy trang ghi chép của nhân vật Lãng thì làm sao thể hiện được thiên tài quân sự Nguyễn Huệ và tương xứng với những sự kiện lẫy lừng đó? Chỉ xét đơn thuần về số lượng trang - 14/2000 trang; tỷ lệ quá nhỏ này đã nói lên điều đó. (Cuộc đại phá quân Thanh chỉ ghi lại trong 14 trang ở chương 96); trong khi đó thì có những nhân vật không để lại dấu ấn gì trong lòng bạn đọc, cũng không ảnh hưởng gì đến nhân vật chính Nguyễn Huệ như vợ chồng Hai Nhiêu lại chiếm không ít số trang ở phần đầu sách. Chính sự không cân xứng đã tạo nên cảm giác nặng nề khi đọc phần đầu sách và đến phần cuối thì lại có cảm giác hụt hẫng.

Thực ra, trong văn chương, số lượng, dung lượng không phải là điều cốt yếu. Không hiếm những bài thơ Đường chỉ 4 câu mà khiến các bậc thức giả nhiều thế hệ bàn luận mãi về cái đẹp, cái hay của nó. Nhưng với tiểu thuyết lịch sử và nhất là theo cách diễn tả cẩn thận, điềm tĩnh của tác giả thì số lượng trang, sự phân bố đề tài không cân xứng, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng tác phẩm. Hơn nữa, sự không cân xứng về “số lượng” ở đây còn làm cho nhân vật chính (Nguyễn Huệ) chưa làm thỏa mãn người đọc. Nói vậy thì kể ra cũng vô cùng, nhưng quả là người anh hùng Nguyễn Huệ qua những trang miêu tả chiến trận chưa thấy “bay lên“ cho xứng với một nhân vật thiên tài quân sự, do đó chưa tạo nên cảm hứng lớn lao và đẹp đẽ trong lòng người đọc trước một nhân vật xuất chúng. Công bằng mà nói, so với Nguyễn Huệ đã có trong sử sách, thì người anh hùng nông dân do Nguyễn Mộng Giác dựng nên đã có “da thịt” hơn nhờ những mối quan hệ với ông giáo Hiến, với An và nhiều nhân vật xung quanh được diễn tả cả về mặt tâm lý, đạo lý và đời sống thường ngày. Tiếc rằng, tác giả đã không tạo được những cao trào, những “điểm nhấn” khiến người đọc rung động sâu sắc. Có thể dẫn ra một ví dụ rất dễ thấy: một nhân vật như Nguyễn Huệ, trước cái chết có bao điều suy ngẫm về sự thắng bại, về tình yêu, về lẽ đời phải trái mang ”sức nặng“ tư tưởng rất đáng được “khai thác” kỹ; nhưng tác giả đã bỏ qua và thay bằng một dòng thông tin vô cảm: “Hôm sau, Bến Ván biết tin vua Quang Trung vừa băng hà hôm 29 tháng 7...”! Thật là tiếc! Tiếc một cơ hội để làm rõ hơn tư tưởng tác phẩm. Cũng có thể nói đây là một “phẩm chất văn học” nữa của tác phẩm chưa tương xứng với độ dày và đề tài của cuốn sách. Nhân vật ông giáo Hiến và không ít sĩ phu khác đã rõ là tư tưởng “hủ Nho”; Kiên (con giáo Hiến) sau chặng đời long đong đã tìm đến cửa Phật; nhưng còn tư tưởng của tác giả và tác phẩm? Do tôi chưa suy ngẫm kỹ để thấy rõ, hay tác giả chưa tiện viết hết những suy tưởng của mình? Điều này, hẳn phải chờ dịp tác giả về thăm lại Huế mới hỏi rõ được.

Một đời văn có được mươi lăm trang toàn bích đã là khó, huống chi những 2000 trang thì có chỗ chưa thật mỹ mãn cũng là lẽ đương nhiên. Vả chăng, thiên hạ bách tính mà! Và cho dù “Sông Côn mùa lũ” còn những điều bất cập chưa làm thỏa mãn người đọc thì đóng góp của tác giả cũng thật đáng trân trọng.

Huế, tháng 10/1999
N.K.P
(134/04-00)


---------------------------------
(*) NXB Văn học và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học xuất bản năm 1998.





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.

  • NGÔ MINHDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do BCH TW Đảng công bố  trong ngày tang lễ Bác tại Quảng trường Ba Đình ngày 3-9-1969 (năm Kỷ Dậu) là một tác phẩm văn hóa lớn, thể hiện tình yêu Tổ Quốc, yêu nhân dân và nhân cách vĩ đại của Bác Hồ.

  • HÀ VĂN THỊNHTrong lịch sử của loài người, những vĩ nhân có tầm vóc và sự nghiệp phi thường chỉ có khoảng vài chục phần tỷ. Nhưng có lẽ rất chắc chắn rằng sự bí ẩn của những nhân cách tuyệt vời ấy gấp nhiều lần hơn tất cả những con người đang sống trên trái đất này. Tôi đã rất nhiều lần đọc Hồ Chí Minh Toàn tập, nhưng mỗi lần đều trăn trở bởi những suy tư không thể hiểu hết về Người.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHHồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân và cộng sản quốc tế, Chủ tịch Đảng Cộng sản Việt Nam, là người Việt Nam đầu tiên soạn thảo và ban bố các sắc lệnh tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân Việt Nam.

  • BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “Đá vàng” của Đinh Khương - NXB Hội Nhà văn 2004)

  • NGÔ XUÂN HỘITính tình phóng khoáng, Trần Chấn Uy chắc không mặn mà lắm với những cuộc chơi mà luật chơi được giới hạn bởi những quy định nghiêm ngặt! Ý nghĩ trên của tôi chợt thay đổi khi mở tập thơ Chân trời khát của anh, ngẫu nhiên bắt gặp câu lục bát: “Dòng sông buồn bã trôi xuôi/ Đàn trâu xưa đã về trời ăn mây”...

  • TRẦN THUỲ MAI( “Thơ Trà My” của Nguyễn Xuân Hoa - NXB Thuận Hoá, 2005)

  • HỒ THẾ HÀ(Đọc tập thơ Lửa và Đất của Trần Việt Kỉnh - Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hoà, 2003)

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO(Đọc tập ký ''Trên dấu chim di thê'' của Văn Cầm Hải- NXB Phương - 2003)

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Huế trong thơ Nguyệt Đình)

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhà xuất bản Lao Động phát hành 2004)

  • PHẠM NGỌC HIỀNChưa lúc nào trong lịch sử Việt , các nhà văn hoá ta lại sốt sắng ra sức kêu gọi bảo tồn nền văn hoá dân tộc như lúc này. Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế công nghiệp cộng với xa lộ thông tin đã mang theo những ngọn gió xa lạ thổi đến từng luỹ tre, mái rạ làm cho "Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều". Mà "Trách nhiệm của mỗi dân tộc là phải thể hiện rõ bản sắc của mình trước thế giới" (R. Tagor).

  • NGUYỄN THANH MỪNG                Miền duyên hải Nam Trung bộ gần gũi với Tây Nguyên lắm lắm, Bình Định gần gũi với Gia Lai lắm lắm, ít nhất ở phương diện địa lý và nhân văn. Ừ mà không gần gũi sao được khi có thể chiều nghe gió biển Quy Nhơn, đêm đã thấm trên tóc những giọt mưa Pleiku. Giữa tiếng gió mưa từ nguồn tới bể ấy nhất thiết bao nhiêu nỗi lòng ẩn chứa trong tiếng thơ diệu vợi có thể chia sẻ, bù đắp được cho nhau điều gì đó.

  • NGUYỄN QUANG HÀSau ba tập: Thơ viết cho em - 1998, Lối nhớ - 2000, Khoảng trời - 2002, năm 2004 này Lê Viết Xuân cho xuất bản tập thơ thứ tư: Đi tìm.

  • NGÔ MINHThật may mắn và hạnh phúc là Hoàng Phủ NgọcTường đã vượt qua được cơn tai biến hiểm nghèo của số phận, để được tiếp tục đến với đọc giả cả nước trong suốt mười một năm nay. Đối với tôi, khi bên chiếu rượu ngồi nghe anh Tường nói, hay đọc bút ký, nhàn đàm, thơ của Hoàng Phủ là những lần tôi được nghe các “cua” ngoại khóa sâu sắc về nhân văn và nghề văn.

  • VÕ THỊ XUÂN HÀVào rằm tháng Giêng năm 2003 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội, Ngày Thơ Việt Nam lần thứ nhất được tổ chức long trọng. Mở đầu bằng lễ kéo Lá cờ Thơ, rồi ngâm đọc bài thơ Nguyên tiêu của Hồ Chí Minh. Sau đó là các chương trình giao lưu thơ với công chúng, đọc những bài thơ hay nhất của đất nước, ngâm thơ, bình thơ v.v…

  • VÔNG VANGCó thể nói cùng với chiều dài lịch sử của vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân, không thể và không khi nào mà khi nói đến nơi đây người ta lại không nhắc đến Thơ. Bởi vì ngoài “nhiệm vụ” là một bức thông điệp giúp cho ta biết hơn về lịch sử, về con người, Thơ còn giúp ta hiểu hơn về chính nó, về một ký ức lãng đãng đang trôi qua từ thẳm sâu trong trí nhớ, trong cái thăng hoa luân chuyển của vũ trụ và của chính con người.

  • TRẦN THÙY MAI(Đọc “Thơ của người cô độc” tập thơ của Tường Phong, NXB Thuận Hóa xuất bản)

  • TRẦN HỮU LỤCChân dung Huế (*) - tập bút ký nhân vật, là một trong 12 đầu sách liên kết giữa Tủ sách Nhớ Huế với NXB Trẻ.

  • BÍCH PHƯỢNG thực hiệnLTS: Trong dịp vào Huế thực hiện một số phim trong chương trình “Người của công chúng” (Đài Truyền hình Việt Nam), nhà báo Bích Phượng đã có dịp tìm hiểu tác phẩm, gặp gỡ trò chuyện với nhà văn Nguyễn Khắc Phê tại ngôi nhà vuờn xinh đẹp của ông trên đường Xuân Diệu. Ông đã trả lời một cách cởi mở và thẳng thắn những vấn đề đặt ra.