Tôi xin phép lấy nhận xét về thời trang của nhà thơ đương thời người Đức E. H. Ballermann để trả lời ngay - trước khi lý luận - câu hỏi thường đặt ra cho tôi "Áo dài truyền thống có đi ngược trào lưu hay xu hướng thời trang hiện đại không”, rằng: Không!
GS. TS. Thái Kim Lan trong trang phục áo dài gấm the thời Nguyễn
Ngược lại chính chiếc áo dài xưa nhất đối với tôi trên phương diện thời trang và phong cách văn hóa, ngày hôm nay lại là hiện đại nhất. Cái cũ nhất lại là cái mới nhất trên cả ba phương diện: phong cách mỹ thuật nhất cho một y phục cả nam lẫn nữ, thời trang (mode) nhất cho hiện nay, và đặc sắc nhất cho một tính cách văn hóa Việt Nam. Lịch sử hình thành chiếc áo dài từ hơn ba trăm năm nay cho thấy chiếc áo dài ôm trọn được cả 3 điểm nhất ấy.
Dấu ấn của một nền văn hóa mới
Khi chúa Nguyễn Phúc Khoát năm 1744 cho thiết kế chiếc áo dài ngũ thân, ông đã không xem y phục như một thứ che thân đơn giản. Áo dài mà ông đề xướng mang ý nghĩa của một sứ mệnh văn hóa đặc thù cho con người sống trong thời của ông trên nhiều lĩnh vực đạo đức và thẩm mỹ nhân bản. Ngoài dấu ấn độc lập chính trị đối với chúa Trịnh và các nước láng giềng, áo dài như y phục nam - nữ của người Đàng Trong là dấu ấn của một nền văn hóa mới ấn định cung cách con người trong cách sống mới, phân biệt với lề lối của người ngoài xứ. Ngoài việc che đậy thân thể, áo dài nhắc nhở con người sống hiếu thảo thuận hòa với cha mẹ anh chị em, trung tín với người chung quanh, kính trọng ta và người. Áo dài có ngũ (năm) thân tượng trưng phụ mẫu của hai bên cha mẹ và chính người mang áo, năm hạt nút cài áo mang ý nghĩa ngũ thường, nhân - lễ - nghĩa - trí - tín, đưa tín hiệu người mang áo tôn trọng nghi lễ làm người trong xã hội.
Qui định thời trang của vị Chúa nổi tiếng gương mẫu và tài ba dưới dạng mẫu “áo dài” đã được người đương thời tuân phục và phát huy, trở nên một “mốt” y phục cho các tầng lớp người trong xã hội từ cung đình, cho đến quan lại và thường dân nam nữ. Bất kể tuổi tác hay giai cấp, họ có chung một mẫu y phục tiêu biểu dưới thời chúa Nguyễn cuối thế kỷ XVIII, trải qua thế kỷ XIX, đến khi vua Nguyễn Gia Long thống nhất toàn thể đất nước và vị vua kế tiếp, Minh Mạng đã ra sắc lệnh “thống nhất y phục bắc nam” cho tất cả người Việt. Áo dài và quần dài từ đó được công nhận như là quốc phục cho cả nam và nữ trên lãnh thổ Việt Nam.
Cúi đầu thán phục và ngưỡng mộ
Có thể nói áo dài vẫn giữ vai trò độc tôn như là quốc phục mãi đến thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, mặc dù đầu thế kỷ XIX ảnh hưởng của Tây phương khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp đã bắt đầu lan tỏa lên toàn diện đời sống văn hóa của người Việt.
Trong trào lưu cách tân khoảng thập niên 20, 30 của thế kỷ XX, hoạ sĩ Nguyễn Cát Tường đã nhìn lại chiếc áo dài cổ điển và “cách tân” chiếc áo dài đặc biệt cho người phụ nữ, trong lúc chiếc áo dài của nam giới hầu như bị hoán đổi bởi lối ăn vận Âu phục như một tuyên ngôn cách mạng (cắt tóc ngắn, mặc Âu phục). Có lẽ cũng cùng cảm hứng với người phát minh chiếc áo dài, nhưng dưới ảnh hưởng của thời khai sáng Âu châu, chiếc áo mà nhà thiết kế Cát Tường đề nghị lại nhấn mạnh nữ tính và vẻ đẹp phụ nữ so với chiếc áo rộng buông thả ngày trước, ông thu hẹp vạt áo thành hai tà, đổi ngắn thành dài. Cát Tường nhìn chiếc áo dài thể hiện được ưu điểm của phái yếu: Vẻ đẹp đàn bà trong cả hai phương diện tâm hồn và thể xác.
Thập niên 1930, 1940, chính chiếc áo dài là thời trang “par exellence” cho phụ nữ Việt với điểm nhấn tà áo dài hơn, đường eo rõ hơn. Qua chiếc áo dài, Cát Tường nhấn mạnh sự uyển chuyển đường cong đồng thời vẫn giữ nét kín đáo mà áo dài vốn có, mặt khác ông tôn trọng những quy củ áo truyền thống như nút gài, cổ áo thấp, vạt áo rộng vừa phải, hai tà úp kín dáng người...
Áo dài trong phong ba bão táp của thời Pháp thuộc, lạ thay vẫn giữ vị trí bất di bất dịch là áo truyền thống Việt Nam. Có thể nói, tham vọng của chính quyền thuộc địa Pháp trong suốt một trăm năm đô hộ là Pháp hóa người Việt, nhưng tham vọng ấy đã dừng lại trước chiếc áo dài, như quốc phục Việt Nam. Có lẽ chỉ có chiếc áo dài với phong cách độc đáo của nó đã chinh phục người Pháp (mãi đến thời đại bây giờ có lẽ càng hơn), làm cho người kiêu căng quyền lực nhất cũng phải cúi đầu. Sự cúi đầu này nên được hiểu đúng nhất bao hàm sự thán phục trước một vẻ đẹp - nói riêng về thời trang, y phục - trước một nét thẩm mỹ độc đáo không nơi nào có được. Điều này tôi có thể cảm nhận được qua kinh nghiệm bản thân, trong thời gian du học tại Đức, khi mặc chiếc áo dài đến trường, một sinh viên Đức đã đến quỳ gối và nâng tà áo dài lên hôn với ánh mắt đầy ngưỡng mộ. Pháp, Đức, Mỹ hay ở nơi đâu khác, chiếc áo dài Việt Nam vẫn hiện thân sự sáng tạo đầy thẩm mỹ tôn vinh vẻ đẹp và nhân cách của con người mặc nó.
Thập niên 60 của thế kỷ XX, áo dài một lần nữa được cách tân qua thiết kế mới của đạo diễn Thái Thúc Nha với cổ decollete, khoét rộng, nhấn mạnh vòng ngực, áo chít eo theo kiểu lưng ong, vạt hẹp và dài phết đất, được trở nên thời trang, mode, nhất là ở các thành phố miền Nam xa Huế. Sự phổ biến được lan rộng với sự ủng hộ của các nghệ sĩ mọi tầng lớp như Kiều Chinh, Thẩm Thúy Hằng, bà Trần Lệ Xuân...
Áo dài vào... đáy rương
Sau mười năm giữa thập niên 1970 cho đến giữa thập niên 1980, trong cơn khủng hoảng văn hóa về truyền thống bị xem là phong kiến, áo dài biệt tăm trên đường phố. Tôi vẫn còn nhớ mãi sự hụt hẫng, nuối tiếc và đau lòng khi trở về quê hương lần đầu tiên, quang cảnh đường phố, sinh hoạt công cộng không còn bóng dáng chiếc áo dài, ngôi trường xưa không còn tà áo trắng thướt tha.
Sự thâm nhập đa dạng không kiểm soát từ nước ngoài trên phương diện thời trang tại Việt Nam khoảng thập niên 1980, 1990 đã tạo nên một giai đoạn thời trang khá phức hợp, nếu không nói là hỗn loạn từ những y phục Tây phương second hand qua gói viện trợ phát triển. Mốt Tây phương không chọn lọc hầu như chế ngự bản đồ thời trang Việt một thời gian dài đã đẩy lùi chiếc áo dài vào đáy rương. Những chiếc áo xưa có khi còn bị bán tháo để đổi lấy chén cơm như nhiều gia đình quý tộc trong cơn sa sút buộc lòng phải bỏ áo. Áo dài tưởng như biến mất. Nhưng không. Sự khủng hoảng không thể xóa mất nét đẹp, văn hóa truyền thống của áo dài.
Đó là khoảng thời gian cho những người yêu áo dài thấy rõ giá trị không thể thay thế được của chiếc áo dài trong đời sống xã hội Việt Nam. Nó đồng hóa với bản lai của một dân tộc từ hơn ba trăm năm. Cho nên trăn trở với sự tồn vong của chiếc áo dài. Không ít người sục sạo đi tìm bản lai của chiếc áo dài, trong đó có tác giả của bài viết này, như một nỗi đam mê bị thu hút bởi vẻ đẹp độc sáng của chiếc áo dài xưa.
Bộ sưu tập áo dài tôn vinh văn hóa các vùng miền của Việt Nam của NTK Ngọc Hân | Nguồn: VOV |
Được đánh thức hồi sinh
Áo dài đã được đánh thức hồi sinh từ nhiều góc nhìn khác nhau trên thế giới khi Việt Nam mở cửa hội nhập. Người Việt Nam ở hải ngoại có lẽ là những người mơ ước áo dài nhất khi trở về quê hương. Kế tiếp là khách nước ngoài du lịch Việt Nam, từ thập niên 1990, mà sự tìm tòi nét tiêu biểu của văn hóa Việt Nam thường dừng lại nơi chiếc áo dài không nơi nào sánh được. Trên lĩnh vực văn hóa và thời trang, áo dài trở lại bằng con đường của biểu diễn hơn là y phục cho đời thường, những lễ hội áo dài từ năm 2000 ở các thành phố như Huế, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, đã đưa áo dài thành những biến tấu, những thương hiệu khác nhau. Sự quảng bá áo dài, dù từ góc độ biểu dương bề ngoài, đôi khi như một nước sơn đánh bóng với những biến tấu quá mức, nhưng có lẽ cần thiết cho một cuộc hồi sinh. Chính trong bối cảnh này áo dài dưới hình thức cổ điển lại đáp ứng được “mốt” thời trang vừa lịch lãm nghiêm trang, vừa quý phái thanh thoát, nó trở thành mới nhất giữa những mốt mới theo phong cách Âu châu đang nở rộ tại Việt Nam. Nhiều gợi hứng sáng tạo của thời trang Âu châu hiện đại đến từ mẫu áo dài cổ điển được phổ biến khắp nơi.
Đã có nhiều sự kiện xảy ra chung quanh việc khôi phục áo dài Việt Nam song song với phong trào toàn cầu hóa, việc sưu tầm áo dài xưa nguyên bản để nhận lại bản lai diện mục chiếc áo dài là điều cần thiết. Trong điều kiện khiêm tốn của mình, các triển lãm bộ sưu tập áo dài xưa cung đình Nguyễn tại Viện Goethe Hà Nội năm 2015 và tại Bảo tàng Văn hóa Huế năm 2016, cũng như triển lãm bộ sưu tập áo dài nam tại Huế năm 2018, đều nằm trong ý hướng trình bày những bộ áo nguyên bản chứ không phải sao chép để gây cảm hứng cho người đương thời, rằng chiếc áo dài là hồn cốt của phong cách Việt Nam có thể giúp ta phân biệt và nhận diện mình trên thế giới.
Sự khám phá lại vẻ đẹp của chiếc áo ngũ thân dành cho nam giới hiện nay lại là một phá cách mới đang được chú ý và thảo luận, chứng tỏ hơn một lần, rằng dù phong cách Tây phương với những bộ sưu tập của các nhà thiết kế với áo đầm đủ kiểu phong phú, nhưng phong cách ấy vẫn còn tuỳ thuộc với phong cách Âu châu đã có truyền thống lâu đời - vậy nên vẫn so le một bước. Trong lúc ấy, sự trở lại với áo dài nam hay nữ, theo tôi, chính là cái mới theo phong cách Việt Nam với những sáng tạo của nghệ nhân đương thời.
Cũng trong ý nghĩa này, xin nhắc lại lời phát biểu trong buổi khai mạc triển lãm áo dài năm 2015: “Có lẽ trong khi chiêm ngưỡng những chiếc áo dài này, những chiếc tàn y, chúng ta sẽ nhận ra được rằng chúng không tàn mà lại thêm tươi. Vẻ đẹp của chúng có thể gợi cho chúng ta những cảm hứng nghệ thuật chính nơi những khoảnh khắc đồng thời hiện đại của xã hội đang đổi thay từng giờ, rằng cái xưa vẫn còn nhiệm vụ nhắc nhở chúng ta về một truyền thống văn hóa Việt sâu xa và nồng hơi ấm con người, rằng nếu không có quá khứ thì những gì hiện đại sẽ ly tán, vụn vặt hư hao ý nghĩa, rằng cái hiện nay cần được chiếu sáng hơn từ cái xưa kia để sáng tạo nên hiện tại sẽ là quá khứ độc sáng cho mai sau, rằng bảo tồn văn hóa chính là nuôi dưỡng mạch sống không ngừng cho thế hệ kế tiếp…”
Nguồn: GS TS Thái Kim Lan - ĐBND
Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...
Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.
1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.
Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.
Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).
*Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.
Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...
Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.
I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.
Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.
Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.
I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.
Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.
Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.
Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...
Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.
Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...
Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.