“Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang

08:27 17/07/2009
MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

Nhà thơ Xuân Hoàng (Ảnh: cand.com.vn)

Đây là cuốn sách anh dành nhiều tâm sức nhất. Anh bắt tay viết những chương đầu vào tháng 9 năm 1987 và mãi đến tháng 8 năm 1993 mới hoàn thành tập I. Xuất bản tập I, anh lại tiếp tục bắt tay viết tập II. Tuy sức khoẻ đã giảm sút nhiều nhưng anh vẫn quyết tâm chạy đua với thời gian. Tiếc là tập II chưa kịp ra mắt độc giả thì anh đã ngã bệnh.

Có người đọc “Âm vang thời chưa xa” cho là anh hơi tham lam dàn trải. Một số chi tiết lặp lại nhiều lần. Tôi không nghĩ như vậy.Thời gian trong hồi ký “Âm vang thời chưa xa” tập I kéo dài từ tuổi ấu thơ của anh cho đến khi kháng chiến thành công (1954) ngót nghét gần ba mươi năm. Ba mươi năm với bao sự kiện, với bao biến động tác giả thu gọn trong chưa đầy 800 trang sách có gì là dài dòng, dàn trải? Anh lại xâu chuỗi các biến cố, sự việc một cách lôgíc với việc cố ý láy lại một số chi tiết quan trọng vừa gây ấn tượng vừa là chất keo gắn chặt các đoạn,các chương. Cách viết này đã phần nào thu hút được sự chú ý của người đọc. Viết hồi ký mà gần như anh đang viết cuốn tiểu thuyết về cuộc đời mình. Làm được điều này theo tôi rất khó. Vì hồi ký phải trung thành với sự thật nên dễ sa vào kể lể khô khan. Nếu tiểu thuyết hoá hồi ký thì khó lòng bảo đảm được tính khách quan, trung thực. “Âm vang thời chưa xa” của Xuân Hoàng vừa trung thành với sự thật vừa lôi cuốn hấp dẫn. “Âm vang thời chưa xa” cho người đọc hiểu thêm khả năng viết văn xuôi của nhà thơ Xuân Hoàng. Nhưng đây là văn xuôi của một nhà thơ vì thế thấm đẫm chất thơ. Anh nhìn con người, cảnh vật với một tâm hồn đa cảm và lãng mạn. Chất trữ tình đậm đặc trong từng trang văn xuôi của anh.

Chẳng hạn đoạn anh tả cô Hoàng Oanh, con gái rượu của cụ Án, người đã từng làm trái tim anh xao động khi anh đang là cậu học trò lớp nhất: “Cô mặc chiếc áo cánh bằng lụa mỏng màu mỡ gà, có thêu thùa ở hai bên vạt áo. Mái tóc đen dày xoã đến gần một nửa tấm lưng thon đang tuổi dậy thì...”. Đoạn anh tả chị Quế, người vợ đầu của anh nằm ngủ: “Nửa đêm tôi tỉnh giấc, tôi nhận thấy có tia trăng lọt mái nhà tranh thủng chập chờn trên mà Quế. Quế nằm nghêing không hề biết má mình đã hứng trọn giọt trăng - một giọt trăng mát lạnh và linh ảo”. Đúng là chỉ có một tâm hồn thật nghệ sĩ, thật lãng mạn mới chú ý quan sát “những giọt trăng” trên má vợ đẹp một cách “linh ảo” như vậy. Còn đây là đoạn anh tả cảnh vượt thác Rào Trổ: “Hình sông thế núi luôn luôn đột ngột thay đổi... Có lúc tôi tưởng cái lườn của tôi sắp bị lật chìm vì sức cuốn của nước nhưng sau đó lại vẫn bình yên vô sự trườn một cách nhẹ nhàng lên mặt suối trong xanh...”.

“Âm vang thời chưa xa” vừa lãng mạn nhưng cũng hết sức hiện thực. Cả cuộc kháng chiến gian khổ được anh kể lại một cách cụ thể, sinh động. Anh Xuân Hoàng không chỉ ghi lại cái thời trai trẻ của mình mà còn tái hiện lại cả một giai đoạn lịch sử của đất nước thông qua một vùng đất đầy chiến tích - nơi giáp ranh giữa vùng tự do và vùng tạm bị chiếm, giáp ranh giữa ta và địch, giữa thật và giả, giữa vàng và lửa... Đọc “Âm vang thời chưa xa” ta có dịp đối chiếu giữa hiện tại và quá khứ, hạnh phúc và đau khổ, đoàn tụ và chia ly. Đọc “Âm vang thời chưa xa” ta hiểu thêm biết bao số phận, biết bao tấm gương hy sinh cao cả cho sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tôi bồi hồi xúc động khi anh nhắc đến vợ chồng mẹ Loàn ở Phú Xá: Mẹ bị địch đánh chết đi sống lại mấy lần cũng không chịu chỉ cho chúng hầm bí mật của cán bộ cách mạng. Chồng mẹ cũng vì không chịu khai cơ sở cách mạng đã bị địch chặt đầu bêu trên cây da ở cổng Bình Quan. Tôi bồi hồi xúc động khi đọc đến những đoạn anh viết về chú Đẵng (em ruột anh). Chú đã từng đóng giả sư ở chùa Diêm Điền mặc áo cà sa, đội mũ tỳ kheo, tụng kinh gõ mõ để hoạt động cách mạng. Chú đã từng bị địch bắn bị thương ở cánh tay máu chảy ròng ròng. Mặc dù còn trẻ tuổi nhưng chú là một chiến sĩ dày dặn kinh nghiệm. Chính chú đã bố trí cho anh trai mình và chị dâu gặp nhau ở chiến khu. Chính chú đã sắp xếp cho ông anh nghệ sĩ của mình những chuyến đi thực tế “dể nhà thơ hiểu thêm chút ít về phong trào đấu tranh chống địch ở một cơ sở miền biển”. Nhưng có lẽ xúc động nhất là những trang anh viết về chị Quế - người vợ hiền thảo xấu số của anh. Anh chị lấy nhau thời loạn ly, chưa kịp hưởng trọn tuần trăng mật đã phải xa nhau đằng đẵng. Họa hoằn lắm mới gặp nhau đôi hôm lại phải chia tay. Rồi anh chị có con. Đứa con gái sinh ra bên khúc sông có tên Đạm Thuỷ. Cháu Đạm Thủy vừa mới vài tháng tuổi thì chị lâm một căn bệnh hiểm nghèo. Chị phải chống chọi với bệnh tật một mình. Khi anh được tin dữ về tìm chị thì chỉ còn một nấm mộ “nằm giữa một thung lũng hẹp, xung quanh toàn gốc bồi và sim mua”. Cuốn sổ nhật ký của chị để lại đã cho chúng ta hiểu thêm tình cảm của anh chị, hiểu thêm cuộc sống gian khổ thiếu thốn của người cán bộ chiến khu trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

Cho phép tôi được lược trích một số đoạn tiêu biểu: “27-8-1950: Anh ra được vài hôm thì trở vào ngay. Mình vẫn giấu anh chỗ đau ở ngực. Con bé thì cứ vồ vập bú không biết vú mẹ đang đau như xé”. “8-9-1950: Con bé bị mất sữa gầy hẳn đi, phải đưa nó ra chọ Gát gấp thôi. Nếu không bú được, ít nhất còn có gạo nấu cháo cho nó ăn. Ở đây biết trông cậy vào đâu”. “18-9-1950”: Con bé thèm sữa cứ mân mê vú mẹ rồi úp miệng vào bú, không có sữa lại khóc thét lên. Thương con thỉnh thoảng sang xin chị Chắt cho bú nhờ. Nhưng chị Chắt đâu có sữa nhiều mà cho mãi...” “25-10-1950: Anh vào đến nay đã hơn hai tháng. Vẫn chưa thấy thư ra. Có lẽ thư thất lạc chăng?”. “3-12-1950: Chao ôi, mình trông anh quá!... Cái lắc đầu ái ngại của bác Điểu sau khi khám xong cho mình hiểu: ung thư mất rồi! Bác Điểu tỏ ý tiếc đã khám quá chậm. Nhưng chậm sớm mà làm chi. Có trời mà cứu nỗi bệnh này. Chao ôi, mình còn trẻ quá!” Thú thực khi đọc những dòng nhật ký ngắn ngủi này tôi đã không kìm được những giọt nước mắt.

“Âm vang thời chưa xa” còn chinh phục người đọc bởi tính chân thật. Thường viết hồi ký không ít người cố tình “đánh bóng” lại các sự việc tìm mọi cách đề cao mình hoặc lợi dụng hồi ký để hạ nhục những người trước đây vốn có tư thù, tư oán với mình. Xuân Hoàng thì lại khác. Gần gũi anh tôi nhận biết anh vốn là người trung thực. Đọc hồi ý của anh tôi càng khâm phục đức tính ấy của anh. Là anh cả nhưng lúc nào anh cũng tự thấy mình thua kém chú Đẵng từ công việc gia đình đến công việc đoàn thể. Mọi việc gần như đều do chú Đẵng sắp xếp, lo liệu. Đối với chị Quế - người vợ hiền thảo và xấu số cũng vậy, anh luôn cảm thấy mình là người chồng vụng về. Anh tự nhận mình “là người chồng vô tích sự, chỉ lo theo công việc một chiều ít nghĩ đến việc chăm sóc vợ con”. Đứng trước mộ chị anh vô cùng ân hận: “Giá tôi được ở cạnh Quế những ngày Quế ốm đau bệnh hoạn! Ít nhất cũng là nguồn động lực, một chút an ủi cho nhau”.

Xuân Hoàng chân thật cả khi nhận xét đồng nghiệp. Đối với người bạn vong niên, nhà thơ Dương Tử Giang bên cạnh sự cảm mến anh cũng thành thật nói lên nhược điểm của ông: “Cách ăn nói rõ ràng là người thoải mái, vô tâm. Và còn sắc sảo nữa là đằng khác. Chỉ có điều hơi gia trưởng một chút”. Anh đặc biệt có cảm tình với Lê Trí Viễn bởi tính chân thật, thẳng thắn của giáo sư. Lê Trí Viễn hồi đó dạy Quốc Học - Huế ra Đồng Hới thăm bạn đúng vào lúc toàn quốc kháng chiến. Ông tình nguyện ở lại Quảng Bình lên chiến khu tham gia công tác tuyên truyền văn hoá.  Xuân Hoàng nhỡ mãi lời nhận xét hóm hỉnh của giáo sư đối với nhà thơ Dương Tử Giang: “Ông nặng nề về tự nhiên chủ nghĩa. Trong thơ cũng như trong văn xuôi. Ai lại đi kêu tướng lên: “Tổ cha ba con chó, tức hè! Trong văn xuôi người ta cũng không nói như thế huống chi trong thơ”. Và chính Xuân Hoàng đã nhiều lần thành thật thú nhận mình có một vài quan niệm ngây thơ, ấu trĩ về văn chương. Chính những quan niệm có phần ngây thơ, ấu trĩ đó đã ảnh hưởng ít nhiều đến sáng tác của anh. Anh “Dễ dãi một cách hồn nhiên và hồn nhiên một cách dễ dãi” (Nhận xét của Chế Lan Viên).

Những chương cuối tập một hồi ký “Âm vang thời chưa xa” in đậm hình ảnh người con gái đất Hương Sơn. Như để bù lại những tổn thất quá lớn mà Xuân Hoàng đã chịu đựng, mấy năm sau anh cán bộ tuyên truyền, nhà báo, nhà thơ “mồ côi vợ” đã tìm được nguồn hạnh phúc mới. Chị Bình vốn là một phụ nữ tế nhị và từng trải đã hiểu và yêu thương anh, tình nguyện chia sẻ cùng anh mọi vui buồn, ấm lạnh. Tôi đọc và nhớ mãi hình ảnh chị mặc áo màu gụ lúc ẩn lúc hiện trong những hàng dâu xanh mướt của làng Khương Hà. Hạnh phúc đến với anh chị cũng là lúc thị xã Đồng Hới được giải phóng. Cây táo vườn nhà anh lại trổ hoa: “Có điều lạ là hoa táo bao giờ cũng thơm một mùi thơm hết sức quen thuộc, nồng nàn và vô cùng dịu ngọt. Mùi hoa của năm tháng và cũng là mùi hoa của cuộc đời”. Gấp lại những trang hồi ký của Xuân Hoàng tôi như vẫn còn ngửi thấy mùi hoa táo dịu ngọt mà nồng nàn ấy. Tôi như vẫn còn nghe âm vang “của một thời chưa xa”. Tất cả ngỡ như vừa mới xảy ra, rất cụ thể, rất sinh động với bao nhiêu gương mặt thân thiết, gần gũi lạ thường. Cảm ơn nhà thơ Xuân Hoàng, cảm ơn những trang hồi ký chân thật của anh đã giúp tôi hiểu thêm mảnh đất Quảng Bình khói lửa, hiểu thêm những con người đã cống hiến tất cả đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc đưa lại cuộc sống thanh bình cho dân cho nước.

M.V.H
(181/03-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!

  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.

  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…