Cảm nhận đầu tiên khi đọc “Văn nghệ Hà Nội những năm 1947 – 1954”, hồi ức - biên khảo của Lê Văn Ba (NXB Hội Nhà văn, 2017) là cuốn sách ngồn ngộn tư liệu và hấp dẫn. Lê Văn Ba có đủ điều kiện, hoàn cảnh và tư cách để làm việc này. Ông sống, sáng tác và hoạt động bí mật trong Hà Nội tạm chiếm, từng bị địch bắt và giam ở Nhà tù Hỏa Lò (hòa bình lập lại năm 1954 ông tròn 20 tuổi).
Bìa cuốn sách “Văn nghệ Hà Nội những năm 1947 - 1954”.
Cuốn sách hấp dẫn bởi nhiều tình tiết ly kỳ, nhiều góc khuất trong hoạt động, sáng tác của văn nghệ sĩ Hà Nội gần 70 năm trước được ông kể lại rạch ròi, thuyết phục, có những nhận xét xác đáng của người trong cuộc. Viết về văn học giai đoạn này, ít người có được điều kiện như Lê Văn Ba, bởi những nhân chứng lịch sử của giai đoạn này chỉ còn lại vài người – người trẻ nhất cũng đã ngoài 80 tuổi.
Nói hồi ức, biên khảo là cách nói khiêm tốn của Lê Văn Ba, nhưng thực ra “Văn nghệ Hà Nội những năm 1947 – 1954”, có dáng dấp của một cuốn lịch sử văn học. Bởi có đánh giá đội ngũ, đánh giá tác phẩm, có những nhận xét về thể loại, có bình giá về từng tác phẩm, tác giả và quan trọng hơn hết là tác giả đã giúp cho người đọc có được cái nhìn toàn cảnh về giai đoạn văn học này – một giai đoạn mà nhiều người vô tình hay hữu ý đã bỏ quên hoặc đánh giá một cách thiên lệch.
Ngoài phần mở đầu, phụ lục 1, phụ lục 2, cuốn sách có 2 chương chính “Nhận diện văn nghệ Hà Nội 1947 – 1954” và “Đỉnh cao văn nghệ Hà Nội những năm 1947 – 1954” tác giả vừa đánh giá văn nghệ Hà Nội những năm này trên bình diện hình thức tồn tại: văn nghệ công khai, hợp pháp; văn nghệ chống đối, bí mật; hồi ký, truyện ký về giai đoạn này viết sau năm 1954, vừa đánh giá chúng theo mốc thời gian: thời kỳ 1947 – 1950; thời kỳ 1950 – 1953; những tháng đầu 1954. Bài “Đội ngũ sáng tác, sống và viết trong những năm Hà Nội tạm chiếm” ở chương 1 đã khắc họa khá đầy đủ và xúc tích đóng góp to lớn của văn nghệ Hà Nội giai đoạn này.
Văn chương hợp pháp hay bí mật, văn nghệ sĩ là chiến sĩ hoạt động nội thành hay những văn nghệ sĩ có hoàn cảnh éo le tuyệt đại bộ phận đều yêu nước, ủng hộ kháng chiến, ghét quân xâm lược. Sau này có nhiều người bị đánh giá sai lệch, nghi ngờ, xét nét nhiều người phải bỏ bút, nhưng tấm lòng của họ với quê hương đất nước vẫn không thay đổi. Tác giả cuốn sách tỏ tấm lòng thông cảm và luôn đau đáu tìm cách giải oan, chiều tuyết cho họ.
Ông cũng công phu sưu tầm và lập danh sách nhà văn Hà Nội tạm chiếm năm 1954 di cư vào Sài Gòn, gồm 43 người; mỗi người đều có sơ lược tiểu sử, danh sách tác phẩm và những nhận xét cơ bản về tác giả. Ngay cả đối với những nhà văn này, Lê Văn Ba cũng có cái nhìn thể tất và quan trọng hơn là đánh giá chính xác vị trí của họ trong nền văn học nước nhà...
Chương 2 “Đỉnh cao văn nghệ Hà Nội những năm 1947 – 1954” chọn những tác phẩm theo ông là thành công nhất: Truyện ngắn hay nhất “Tiếng khóc” của Băng Hồ; “Đất” tiểu thuyết của Ngọc Giao, in đậm dấu ấn một thời; phóng sự đặc sắc “Phố Tràng Tiền” của Huy Linh; bút ký hay nhất “Món ngon Hà Nội” của Vũ Bằng; bức tranh đẹp nhất “Núi rừng Việt Bắc” của họa sư Nam Sơn; bài hát hay nhất “Hướng về Hà Nội” của Hoàng Dương; những bức ảnh lịch sử vô giá “Hà Nội sau năm 1946” của Nguyễn Duy Kiên... Về nghệ thuật sân khấu, Lê Văn Ba chọn 3 tác phẩm: kịch thơ “Bến nước Ngũ Bồ” của Hoàng Công Khanh, vở cải lương “Người nữ tỳ Hai Bà Trưng” của Sĩ Tiến, kịch nói “Giao thừa” của Vũ Khắc Khoan…
Ở mỗi thể loại, tác giả đều có phần trình bày tình hình chung, thành tựu trong thời kỳ 1947 – 1954, sau đó giới thiệu tác giả, tác phẩm được ông đánh giá là có giá trị nhất trong giai đoạn này, trước khi in hoặc trích tác phẩm. Cần phải nói ngay, tác giả phải là người công tâm và rất có bản lĩnh mới có thể đưa ra được bản danh sách rõ ràng, rành mạch như vậy. Ông cũng tự đánh giá là ngoài lĩnh vực văn chương, các thể loại khác ông không đủ sức, đủ tài liệu để đánh giá và mong bạn đọc lượng thứ. Chúng ta hoàn toàn thông cảm và trân trọng thái độ này của ông.
Phần phụ lục 2- tuy là phụ lục nhưng rất quan trọng - tác giả đề cập tới cuộc tọa đàm “Nhận diện văn chương Hà Nội thời tạm chiếm 1947 – 1954” do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức. Các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu: Hữu Thỉnh, Dương Tuyết Lan, Vân Long, Thái Kế Toại, Lê Văn Ba, Vũ Quần Phương… đã có những phát biểu hết sức tâm huyết, đánh giá đúng những đóng góp của thời đoạn văn nghệ này của Hà Nội.
Nhà thơ Hữu Thỉnh nói: “… Chúng ta cần có cách nhìn mới đối với đội ngũ, phong trào đã từng cống hiến cách mạng, góp phần kháng chiến ngay trong lòng Hà Nội tạm chiếm. Cần trả lại vị trí của nó, đóng góp của nó, những thành tựu của nó. Đây là việc làm cần thiết, cấp bách của thế hệ chúng ta. Không nên trao gánh nặng cho thế hệ sau. Đây là sự công bằng của lịch sử”.
Chúng ta hiểu sự trân trọng của nhà thơ Hữu Thỉnh cũng như sự sốt ruột của ông, bởi những người “Viết trong Hà Nội những năm 1947 – 1954” ngày càng thưa vắng. Đến dự cuộc tọa đàm ngày 6/10/2016 chỉ có 3 người: Dương Tuyết Lan, Vân Long, Lê Văn Ba đều đã trên 80 tuổi (các anh Trần Chinh Vũ, Hồ My, Trần Hoàng Long không đến được vì sức khỏe kém; từ TP HCM Huy Linh gửi thư ra chúc mừng).
Cũng trong cuộc tọa đàm này nhà thơ Hữu Thỉnh- Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam cho biết, dự kiến trong năm 2017, Hội sẽ ra mắt tuyển tập hoặc toàn tập các tác phẩm văn học giai đoạn này. Nay đã là cuối tháng 12/2017, nhưng vẫn “bóng chim tăm cá”. Những khắc khoải của nhà văn Lê Văn Ba và một số ít cây bút đã cao tuổi từng sống và sáng tác trong giai đoạn này lại phải tiếp tục chờ đợi.
Theo Trần Bảo Hưng - ĐĐK
1. Quan sát tiểu thuyết Việt Nam đương đại, chúng ta sẽ nhận thấy có một số triều đại, nhân vật được các nhà văn tập trung khai khác với mật độ khá dày như nhà Trần với Trần Khánh Dư, Trần Hưng Đạo (xuất hiện trong Sương mù tháng giêng của Uông Triều, Trần Khánh Dư của Lưu Sơn Minh, Chim ưng và chàng đan sọt của Bùi Việt Sĩ, Đức Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh…), nhà Lê với Nguyễn Trãi (xuất hiện trong Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Trãi của Bùi Anh Tấn…), nhà Tây Sơn với Nguyễn Huệ (xuất hiện trong Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh…).
Có thể coi “Dế mèn phiêu lưu ký” là một trong những tác phẩm đặc biệt nhất của văn học Việt Nam, khi tính đến nay đã có rất nhiều ấn bản đặc biệt của bộ sách này ra đời. Mới đây, độc giả yêu mến “dế mèn” lại một lần nữa được thưởng thức cuộc phiêu lưu của chú dế lừng danh qua ấn phẩm mới với những bức tranh minh họa hoàn toàn khác biệt của nữ họa sĩ trẻ Đậu Đũa.
Ở vào tuổi 99, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư vẫn tỏ ra minh mẫn và tinh anh khi giao lưu cùng bạn đọc nhân dịp tái bản bộ tiểu thuyết lịch sử Loạn 12 sứ quân do NXB Văn hóa - Văn nghệ tổ chức vào sáng ngày 20-9, tại Đường sách TPHCM.
Khi nghe tin nhà văn Vũ Tú Nam đã trút hơi thở cuối cùng, lòng tôi dâng lên một nỗi buồn. Nhưng trong nỗi buồn ấy là những ký ức đẹp và ấm áp về ông. Hình ảnh ông hiện lên và ngự trị trên hình ảnh ấy là ánh mắt và nụ cười hiền hậu.
"Túc tắc sống/ Ngày nối ngày/ Túc tắc say từng phút giây/ Tới khi nào buông tay bút/ Trời xanh ngút túc tắc bay..." - là những dòng thơ của con trai nhà văn Vũ Tú Nam mới đăng để tiễn biệt cha về cõi vĩnh hằng.
Sớm thứ hai ngày 7-9, Trung tướng Triệu Xuân Hòa (Ba Hòa), nguyên Tư lệnh Quân khu 7, gọi cho tôi: “Anh nghe tin buồn chưa, bác Văn Lê đi đêm qua rồi”. Tôi không tin vào tai mình, hỏi lại: “Văn Lê nào, có phải nhà thơ Văn Lê?”. Giọng Ba Hòa buồn rười rượi: “Mới sớm qua, bác ấy còn đi qua ngõ nhà chúng tôi. Bác ấy vẫn cười vui mà?”.
“Mở mắt ngày đã trôi” là tập truyện mới của tác giả Hoàng Thanh Hương nằm trong đề án Bảo tồn, phát huy giá trị tác phẩm văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam thực hiện năm 2020.
Kỷ niệm 75 năm Quốc khánh 2.9, NXB Kim Đồng giới thiệu những cuốn sách về quê hương đất nước, lịch sử cách mạng, về Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, nhằm góp phần bồi đắp trong thế hệ trẻ lòng yêu nước thương nòi, tinh thần tự hào, hiểu sâu sắc hơn vị trí, uy tín của Việt Nam trong thế giới hiện đại là khởi nguồn từ ngày 2.9.1945.
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp sinh năm 1950, là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam đương đại, với những sáng tác truyện ngắn đặc sắc, mang hơi hướng huyền thoại, cổ tích, hoặc lịch sử. Với Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Đông A và NXB Văn học), bạn đọc sẽ được gặp lại một cuốn sách vừa quen vừa lạ.
Được xem là tác phẩm đỉnh cao trong cuộc đời sáng tác ngắn ngủi của “Ông vua phóng sự đất Bắc” Vũ Trọng Phụng, tiểu thuyết Số đỏ đã từng quen thuộc với nhiều thế hệ độc giả Việt Nam. Mới đây, tác phẩm vừa được trở lại với một diện mạo hoàn toàn mới do Công ty Sách Đông A và NXB Văn học ấn hành.
Nhà nghiên cứu Phan Ngọc khi nghiên cứu bản sắc văn hoá của người Việt Nam đã nêu ra bốn yếu tố: Tổ quốc, gia đình, thân phận và diện mạo. Theo tôi trong bốn yếu tố ấy thì quan trọng nhất, khi hai yếu tố kia đã có rồi, là thân phận và diện mạo, vì hai yếu tố này mới xác nhận vị thế một con người trong xã hội.
Tôi xúc động rưng rưng khi đọc những trang đầu cuốn sách mới của nhà văn Ngô Thảo với đầu đề “Nghiêng trong bóng chiều” (Nxb. Quân đội nhân dân, 2020), mừng ông tròn tuổi 80. Ông mở đầu: Khi trò chuyện với người già, lớp trẻ sợ nhất là các vị ôn nghèo, kể khổ về thời bao cấp.
Trở về với miền Nam để trả món nợ ân tình, đó chính là khát vọng để Nguyễn Thi sáng tạo nên những tác phẩm cố gắng khái quát bức tranh rộng lớn của một thời cả dân tộc lên đường đánh Mĩ.
Bao năm qua, những sáng tác về Hà Nội đều đặn ra mắt công chúng. Không phải ngẫu nhiên nhiều tác giả luôn ưu ái dành một góc văn chương của mình để viết về Hà Nội, bởi tình yêu, sự mến thương và cảm giác gắn bó với mảnh đất Thăng Long xưa.
Tiểu thuyết “Những ngày cách ly”, tác giả Bùi Quang Thắng, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh dài 160 trang được viết trong 12 ngày, đề tài liên quan đến dịch Covid-19. Đọc xong, điều đầu tiên, cũng đáng nể người viết, người biên tập, đây hẳn là cuộc chạy đua để cuốn sách đến được với bạn đọc trong thời gian nhanh nhất có thể.
Bộ sách đồ sộ với độ dày gần 5000 trang tập hợp 30 nhật ký của những người lính trong chiến tranh. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều gọi đây là bộ hồ sơ văn hóa Việt Nam. Còn Trung tướng, Anh hùng LLVTND Đoàn Sinh Hưởng thì coi bộ sách là dấu ấn tâm hồn của các anh hùng liệt sĩ.
5 năm sau khi nữ tác giả Svetlane Alexievich nhận giải Nobel văn học cho những cuốn sách thuộc thể loại phi hư cấu, Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam, bằng sự nỗ lực lớn đã tiếp tục giới thiệu các tác phẩm của bà. Hai cuốn sách được dịch và giới thiệu mới là “Những nhân chứng cuối cùng” và “Những cậu bé kẽm” do dịch giả Phan Xuân Loan thực hiện.
Với mong muốn khơi gợi niềm thích thú và sự tò mò của độc giả nhỏ tuổi đến với sách giáo dục truyền thống, Nhà xuất bản Kim Đồng vừa giới thiệu câu chuyện về tấm gương anh hùng của chị Võ Thị Sáu và anh Lý Tự Trọng với phần lời kể được lồng ghép cùng những bức tranh tả thực hoành tráng.
Trong lòng tôi, nhà văn Phạm Tường Hạnh là người anh giàu tình nghĩa, sống sôi động, bộc trực, thẳng thắn, nhưng với đồng nghiệp thì luôn biết lắng nghe và tôn trọng. Hôm nay, kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Phạm Tường Hạnh, xin có đôi dòng...
Đến nay, nhà văn Ma Văn Kháng đã cho ra đời hơn 20 tiểu thuyết, gần 200 truyện ngắn, chủ yếu lấy cảm hứng từ sử thi và thế sự đời tư, đề cập phần nhiều đến cuộc sống và con người vùng Tây Bắc.