'Văn nghệ Hà Nội những năm 1947 - 1954': Những trang viết tâm huyết

09:57 22/12/2017

Cảm nhận đầu tiên khi đọc “Văn nghệ Hà Nội những năm 1947 – 1954”, hồi ức - biên khảo của Lê Văn Ba (NXB Hội Nhà văn, 2017) là cuốn sách ngồn ngộn tư liệu và hấp dẫn. Lê Văn Ba có đủ điều kiện, hoàn cảnh và tư cách để làm việc này. Ông sống, sáng tác và hoạt động bí mật trong Hà Nội tạm chiếm, từng bị địch bắt và giam ở Nhà tù Hỏa Lò (hòa bình lập lại năm 1954 ông tròn 20 tuổi).

Bìa cuốn sách “Văn nghệ Hà Nội những năm 1947 - 1954”.

Cuốn sách hấp dẫn bởi nhiều tình tiết ly kỳ, nhiều góc khuất trong hoạt động, sáng tác của văn nghệ sĩ Hà Nội gần 70 năm trước được ông kể lại rạch ròi, thuyết phục, có những nhận xét xác đáng của người trong cuộc. Viết về văn học giai đoạn này, ít người có được điều kiện như Lê Văn Ba, bởi những nhân chứng lịch sử của giai đoạn này chỉ còn lại vài người – người trẻ nhất cũng đã ngoài 80 tuổi.

Nói hồi ức, biên khảo là cách nói khiêm tốn của Lê Văn Ba, nhưng thực ra “Văn nghệ Hà Nội những năm 1947 – 1954”, có dáng dấp của một cuốn lịch sử văn học. Bởi có đánh giá đội ngũ, đánh giá tác phẩm, có những nhận xét về thể loại, có bình giá về từng tác phẩm, tác giả và quan trọng hơn hết là tác giả đã giúp cho người đọc có được cái nhìn toàn cảnh về giai đoạn văn học này – một giai đoạn mà nhiều người vô tình hay hữu ý đã bỏ quên hoặc đánh giá một cách thiên lệch.

Ngoài phần mở đầu, phụ lục 1, phụ lục 2, cuốn sách có 2 chương chính “Nhận diện văn nghệ Hà Nội 1947 – 1954” và “Đỉnh cao văn nghệ Hà Nội những năm 1947 – 1954” tác giả vừa đánh giá văn nghệ Hà Nội những năm này trên bình diện hình thức tồn tại: văn nghệ công khai, hợp pháp; văn nghệ chống đối, bí mật; hồi ký, truyện ký về giai đoạn này viết sau năm 1954, vừa đánh giá chúng theo mốc thời gian: thời kỳ 1947 – 1950; thời kỳ 1950 – 1953; những tháng đầu 1954. Bài “Đội ngũ sáng tác, sống và viết trong những năm Hà Nội tạm chiếm” ở chương 1 đã khắc họa khá đầy đủ và xúc tích đóng góp to lớn của văn nghệ Hà Nội giai đoạn này.

Văn chương hợp pháp hay bí mật, văn nghệ sĩ là chiến sĩ hoạt động nội thành hay những văn nghệ sĩ có hoàn cảnh éo le tuyệt đại bộ phận đều yêu nước, ủng hộ kháng chiến, ghét quân xâm lược. Sau này có nhiều người bị đánh giá sai lệch, nghi ngờ, xét nét nhiều người phải bỏ bút, nhưng tấm lòng của họ với quê hương đất nước vẫn không thay đổi. Tác giả cuốn sách tỏ tấm lòng thông cảm và luôn đau đáu tìm cách giải oan, chiều tuyết cho họ.

Ông cũng công phu sưu tầm và lập danh sách nhà văn Hà Nội tạm chiếm năm 1954 di cư vào Sài Gòn, gồm 43 người; mỗi người đều có sơ lược tiểu sử, danh sách tác phẩm và những nhận xét cơ bản về tác giả. Ngay cả đối với những nhà văn này, Lê Văn Ba cũng có cái nhìn thể tất và quan trọng hơn là đánh giá chính xác vị trí của họ trong nền văn học nước nhà...

Chương 2 “Đỉnh cao văn nghệ Hà Nội những năm 1947 – 1954” chọn những tác phẩm theo ông là thành công nhất: Truyện ngắn hay nhất “Tiếng khóc” của Băng Hồ; “Đất” tiểu thuyết của Ngọc Giao, in đậm dấu ấn một thời; phóng sự đặc sắc “Phố Tràng Tiền” của Huy Linh; bút ký hay nhất “Món ngon Hà Nội” của Vũ Bằng; bức tranh đẹp nhất “Núi rừng Việt Bắc” của họa sư Nam Sơn; bài hát hay nhất “Hướng về Hà Nội” của Hoàng Dương; những bức ảnh lịch sử vô giá “Hà Nội sau năm 1946” của Nguyễn Duy Kiên... Về nghệ thuật sân khấu, Lê Văn Ba chọn 3 tác phẩm: kịch thơ “Bến nước Ngũ Bồ” của Hoàng Công Khanh, vở cải lương “Người nữ tỳ Hai Bà Trưng” của Sĩ Tiến, kịch nói “Giao thừa” của Vũ Khắc Khoan…

Ở mỗi thể loại, tác giả đều có phần trình bày tình hình chung, thành tựu trong thời kỳ 1947 – 1954, sau đó giới thiệu tác giả, tác phẩm được ông đánh giá là có giá trị nhất trong giai đoạn này, trước khi in hoặc trích tác phẩm. Cần phải nói ngay, tác giả phải là người công tâm và rất có bản lĩnh mới có thể đưa ra được bản danh sách rõ ràng, rành mạch như vậy. Ông cũng tự đánh giá là ngoài lĩnh vực văn chương, các thể loại khác ông không đủ sức, đủ tài liệu để đánh giá và mong bạn đọc lượng thứ. Chúng ta hoàn toàn thông cảm và trân trọng thái độ này của ông.

Phần phụ lục 2- tuy là phụ lục nhưng rất quan trọng - tác giả đề cập tới cuộc tọa đàm “Nhận diện văn chương Hà Nội thời tạm chiếm 1947 – 1954” do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức. Các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu: Hữu Thỉnh, Dương Tuyết Lan, Vân Long, Thái Kế Toại, Lê Văn Ba, Vũ Quần Phương… đã có những phát biểu hết sức tâm huyết, đánh giá đúng những đóng góp của thời đoạn văn nghệ này của Hà Nội.

Nhà thơ Hữu Thỉnh nói: “… Chúng ta cần có cách nhìn mới đối với đội ngũ, phong trào đã từng cống hiến cách mạng, góp phần kháng chiến ngay trong lòng Hà Nội tạm chiếm. Cần trả lại vị trí của nó, đóng góp của nó, những thành tựu của nó. Đây là việc làm cần thiết, cấp bách của thế hệ chúng ta. Không nên trao gánh nặng cho thế hệ sau. Đây là sự công bằng của lịch sử”.

Chúng ta hiểu sự trân trọng của nhà thơ Hữu Thỉnh cũng như sự sốt ruột của ông, bởi những người “Viết trong Hà Nội những năm 1947 – 1954” ngày càng thưa vắng. Đến dự cuộc tọa đàm ngày 6/10/2016 chỉ có 3 người: Dương Tuyết Lan, Vân Long, Lê Văn Ba đều đã trên 80 tuổi (các anh Trần Chinh Vũ, Hồ My, Trần Hoàng Long không đến được vì sức khỏe kém; từ TP HCM Huy Linh gửi thư ra chúc mừng).

Cũng trong cuộc tọa đàm này nhà thơ Hữu Thỉnh- Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam cho biết, dự kiến trong năm 2017, Hội sẽ ra mắt tuyển tập hoặc toàn tập các tác phẩm văn học giai đoạn này. Nay đã là cuối tháng 12/2017, nhưng vẫn “bóng chim tăm cá”. Những khắc khoải của nhà văn Lê Văn Ba và một số ít cây bút đã cao tuổi từng sống và sáng tác trong giai đoạn này lại phải tiếp tục chờ đợi.

Theo Trần Bảo Hưng - ĐĐK

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • . Hai năm sau kể từ khi Julia Kristeva đưa ra khái niệm liên văn bản (intertextuality), Roland Barthes đã đi xa hơn nhiều qua một tuyên bố gây sốc: Cái chết của tác giả (The Death of the Author, 1968). Những quan niệm mới mẻ của các nhà khoa học một thời từng là trụ cột của chủ nghĩa cấu trúc đã chính thức khép lại vai trò của isme này và mở ra giai đoạn hậu cấu trúc. Trong quan niệm mang tính gây hấn của họ, người đọc, từ chỗ là kẻ bên lề, đã chính thức bước vào vị thế trung tâm với tư cách là kẻ có quyền năng tối thượng trong việc thiết lập mối quan hệ và ý nghĩa giữa văn bản và liên văn bản, giữa văn bản và các thiết chế văn hóa đã tạo ra nó(1).

  • Tiểu thuyết về giải phóng miền Nam Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.1975 của nhà báo kỳ cựu Trần Mai Hạnh đã vượt qua tiểu thuyết về chiến tranh biên giới phía Bắc Mình và họ của Nguyễn Bình Phương, tác giả xuất sắc của văn học đương đại.

  • “Tay chơi” Nguyễn Quang Sáng rời xa cõi tạm, “trưởng lão” Tô Hoài về với “Cát bụi chân ai,” nhà văn của đất và người phương Nam - Anh Đức về với đất Mẹ, tác giả của “Biển và chim bói cá” - nhà văn Bùi Ngọc Tấn kết thúc hành trình sống và viết…

  • "Những đỉnh núi du ca" là công trình nghiên cứu mới nhất về tộc người H'mông của nhà nghiên cứu trẻ Nguyễn Mạnh Tiến (ảnh bên), người đã cố công lang thang suốt ba năm trên khắp miền núi phía Bắc mà trọng tâm là cao nguyên đá Đồng Văn để tìm kiếm cho mình một lối tiếp cận khả dĩ nhất để giải mã những phản ứng phức tạp của tộc người vừa đặc biệt, vừa hấp dẫn nhưng cũng không ít bí ẩn.

  • "Có một phố vừa đi qua phố" - tập di cảo của cố tác giả Đinh Vũ Hoàng Nguyên - là một trong bốn tác phẩm văn học đoạt giải "Văn học Nghệ thuật Thủ đô 2014".

  • Nhà văn quân đội có tiếng Đình Kính (Hải Phòng) viết ở nhiều lĩnh vực: Tiểu thuyết, truyện ngắn, ký, kịch bản phim. Mảng chủ đề lớn mà ông đeo đuổi là biển và những người lính biển, với các tác phẩm “Sóng cửa sông” (1976), “Đảo mùa gió” (1978), “Lính thủy” (1978), “Người của biển” (1985) - Giải thưởng văn học Bộ Quốc phòng, “Sóng chìm” (2002), “Huyền thoại tàu không số” (2012) - 2 tác phẩm này đều đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn VN. Phóng viên Báo Lao Động đã phỏng vấn ông…

  • Trong tiểu thuyết Xác phàm, nhà văn Nguyễn Đình Tú dùng hình ảnh “mùi buồn” để gợi lại ẩn ức về một cuộc chiến tranh.

  • Bất kỳ người cầm bút nào cũng đều mơ ước rằng tác phẩm của mình sẽ trở thành sách gối đầu giường của hàng triệu người. Sao chúng tôi - những nhà văn, nhà thơ Việt Nam lại không mong muốn một ngày tác phẩm của mình hiện diện trên các ngôn ngữ của dân tộc khác chứ?

  • NGUYỄN NHẬT ÁNH

                   Tạp văn

  • Nhà văn Tô Hoài - tác giả của cuốn sách "Dế mèn phiêu lưu ký"  khiến bao thế hệ bạn đọc Việt Nam say mê - đã từ trần vào trưa 6.7.2014 tại nhà riêng ở Hà Nội, hưởng thọ 95 tuổi. 

  • Nobel Văn học là đỉnh cao nhưng không phải đỉnh cao nào cũng làm hoan hỉ tất cả mọi người. Việc lựa chọn của viện Hàn lâm Thuỵ Điển những năm gần đây chắc chắn sẽ làm chạnh lòng những ai đã trót yêu thích thế giới văn chương của Kafka, Jorge Louis Borges, Umberto Eco, Robbe – Grillet, Italo Calvino…

  • Ngày nay, nhìn lại chủ trương cách mạng của Phan Châu Trinh cách đây hơn một thế kỷ, một lần nữa chúng ta lại thấy tầm nhìn của một người mang khát vọng Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh

  • Lần nào ra Hà Nội, dù dài ngày hay chỉ là thoáng chốc, nhà văn Trần Thùy Mai cũng tới ngồi uống cà phê ở nhà hàng Thủy Tạ nhìn ngắm hồ Gươm và hẹn bạn bè tới gặp gỡ chuyện trò. Hỏi vì sao chị chỉ chọn mỗi chỗ này, Trần Thùy Mai bảo: “Là vì ở đây là “Hà Nội nhất”, lại có thiên nhiên bao quanh, giống như  bờ sông Hương ở Huế vậy…”.