NGÔ MINH
Bản lĩnh văn hóa là cuốn sách gồm các bài báo và tiểu luận của nhà văn Tô Nhuận Vỹ do Nxb. Tri thức ấn hành năm 2014. Tôi đọc một mạch với sự xúc động và hứng khởi.
Xúc động vì cái TÂM sáng và thẳng thắn, bộc trực của tác giả, nên nhìn vấn đề gì cũng đúng đắn, sáng rõ. Hứng khởi vì những điều mà nhà văn đưa ra bàn luận là những vấn đề đang bức xúc của thế sự Việt, văn chương Việt. Đó là việc đánh giá các tác giả đổi mới, tác tác giả đã từng làm việc với chế độ phong kiến hay với Pháp xưa, việc đổi mới và hội nhập của văn học Việt Nam… Anh bàn một cách rạch ròi, khí khái, có lý có tình, dù là những vấn đề “gay cấn”, “nhạy cảm”.
Từ nhiều năm nay ở Huế, có nhiều đêm tôi đã lên nhà nằm nghe Tô Nhuận Vỹ đọc bản thảo tiểu thuyết mới, nghe anh kể về những ý định tương lai của mình, tôi đã nhận ra sự mới mẻ trong quan niệm và tư duy của anh. Anh mới đến mức đã tìm cách để đưa đoàn Ca Huế sang Mỹ biểu diễn trong lúc nước ta đang bị Mỹ cấm vận gắt gao. Anh là người đầu tiên “nối mạng thân thiện” với William Joiner Center - Đại học Massachusetts, từ đó “kết nối” Hội Nhà văn Việt Nam với Trung tâm này trong quá trình hội nhập văn học Việt Nam sang Mỹ. Rồi anh đứng ra tỉ tê vận động để tỉnh Thừa Thiên Huế chấp nhận và dành những căn nhà sang trọng nhất để nghệ thuật Điềm Phùng Thị, Lê Bá Đảng từ Pháp về với Huế. Mới hơn là trong tư duy Tô Nhuận Vỹ khi anh là Tổng Biên tập Tạp chí Sông Hương. Anh đã làm cho Tạp chí “tỉnh lẻ” này biến thành một tạp chí tầm cỡ quốc gia. Và tinh thần ấy Sông Hương vẫn giữ vững đến bây giờ.
Viết về bà Nguyễn Đình Chi (nhân sĩ Huế, từng là Đại biểu Quốc Hội), khi xảy ra sự cố Tạp chí Sông Hương, Tổng Biên tập bị cách chức, Tô Nhuận Vỹ viết: “Cho đến khi ăn chén chè đậu ván sau bữa cơm với cô, cô mới nhỏ nhẹ: - Vỹ có cách chi giúp Sông Hương tiếp tục tinh thần khi trước không?... Tôi hiểu cô muốn nói với tôi như vậy. Tôi thầm cảm ơn tấm lòng của một đại nhân nơi cô” (Gió vẫn thổi trên dòng sông). Đó là tâm sự của những người hướng đến cái mới cho đất nước. Bàn về những điều băn khoan về cụ Phạm Quỳnh còn trong xã hội, nhà văn viết: “Đã có nhiều cuộc hội thảo…, đã có nhiều nhà xuất bản đã in lại nhiều tác phẩm của Phạm Quỳnh sau năm 1975… khẳng định sự đóng góp to lớn của Phạm Quỳnh đối với sự gìn giữ, phát huy nền quốc ngữ, nền văn học, văn hóa dân tộc. Ai cũng biết, băn khoăn còn lại, tựu trung là Phạm Quỳnh đã từng trực tiếp hợp tác với Pháp”. Tô Nhuận Vỹ có cái nhìn rất mới, khi đả phá quan điểm “ai không theo ta là địch” tồn tại thời hậu chiến cho đến nay. Cách đây hơn 30 năm, anh đã viết tiểu thuyết Ngoại ô, với mục tiêu tối hậu là để đấu tranh với quan điểm sai trái này. Anh viết: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ đã chỉ rõ: không phải chỉ có những người cộng sản mới yêu nước. Sự giỏi dang nhất là người cộng sản đã tập hợp được cả những người không ưa cộng sản trong mặt trận chống Mỹ, đến cả tổng thống cuối cùng của chế độ Sài Gòn cũng có hành động có lợi cho Cách mạng”. Đó chính là TẦM NHÌN HỒ CHÍ MINH trong việc đãi cát tìm nhân tài, trong việc đối xử với các nhân vật lớn mà cả “địch” và “ta” đều chú ý. Với Phạm Quỳnh, Bác Hồ đã thảng thốt khi nghe tin ông bị giết. “Giết một học giả như vậy thì nhân dân được gì? Cách mạng được ích lợi gì?” (Điều gì còn băn khoăn về Phạm Quỳnh?). Phải có nhãn quan văn hóa như thế mới ứng xử có tình có lý, có nhân văn đối với những người có quan điểm trái chính thống. Vì trong những suy nghĩ của họ có nhiều điểm có lợi cho dân tộc, cho cách mạng. Chứ dồn tất cả họ vào một rọ là “địch” thì dễ quá, làm cách mạng để làm gì?
Về tổ chức bộ máy Hội Văn nghệ hiện nay, Tô Nhuận Vỹ đã nói thẳng thừng những băn khoăn của mình. Một là “tới giờ chuyện chống bao cấp, chống xin - cho… cả nước đã tiến một bước dài. Riêng văn học nghệ thuật, riêng Hội Nhà văn là “ngoại lệ?”. “Cả nước đã đẻ thêm gần đến ngàn hội lớn hội nhỏ”, “với đủ các loại chức danh trưởng, phó, thường trực, tổng số cán bộ lãnh đạo hội gần bằng hội viên”. Dẫn đến một sự ĐẠI VÔ LÝ (anh viết chữ in hoa) là hệ thống văn học nghệ thuật đang theo đường hướng bao cấp triệt để hơn xưa nhiều”. Về nhân sự điều hành hoạt động của Hội Nhà văn thì hết khóa này đến khóa khác, “chúng ta vẫn thấy một số gương mặt U80, U70”. Nhà văn trăn trở: “…cái gì khiến lãnh đạo không còn thực tin anh em trẻ (mà trẻ gì nữa khi họ cũng đã 45, 50 tuổi)”? (Đúng hướng không?). Đó là băn băn của người có tầm nhìn và trách nhiệm với văn học nước nhà.
Tô Nhuận Vỹ nhiều năm là Tổng Biên tập Tạp chí Sông Hương. Một chức quan nhỏ hàng tỉnh. Nhưng theo anh “Thuận Hóa - Phú Xuân là một vùng tiêu biểu của văn hóa Việt Nam”, vậy làm sao để phát huy truyền thống văn hóa ấy thông qua một tạp chí văn nghệ? Anh khẳng định: “Phải có bản lĩnh, BẢN LĨNH VĂN HÓA (in hoa), mới có thể làm được nhưng việc ai cũng biết, ai cũng nói, nhưng không phải ai cũng làm được”. Đối tượng phục vụ là “công nông binh” thì an toàn tuyệt đối, nhưng sẽ dễ dãi trong lựa chọn bài vở. Rồi người viết là ai? Tô Nhuận Vỹ đã “…âm thầm khẳng định Sông Hương là tờ tạp chí tầm cỡ quốc gia”. Từ đó người viết bài cho Sông Hương phải mở rộng ra cả nước và thế giới. Tạp chí đã tiếp cận được với các nhà văn hóa lớn, nhà văn nổi tiếng, các nhà cách tân hàng đầu trong và ngoài nước. Mục tiêu của sông Hương là “cái cũ phải sâu, cái mới phải mạnh và nhìn ra thế giới”. Đó chính là bản lĩnh mà người Tổng Biên tập đã truyền cho các biên tập viên dưới quyền. Nhờ đó mà Tạp chí Sông Hương đã trở thành một trong những tạp chí văn nghệ hàng đầu của đất nước.
Sách Bản lĩnh văn hóa đã dành phần lớn trang (154 trang) để bàn về “Nhà văn Việt Nam: Đổi mới và hội nhập”. Tô Nhuận Vỹ luôn day dứt: “Làm sao để các nhà văn trong nước và các nhà văn gốc Việt Nam ở nước ngoài có thể ngồi lại với nhau, để nói, để viết, để hoạt động, để bàn thảo tìm ra hướng đồng thuận, để hợp lực hợp tâm vì mục tiêu hưng thịnh đất nước, hưng thịnh nền văn hóa Việt Nam? Trọng tâm cuốn sách là chuyên luận Nhà văn Việt Nam: Đổi mới và Hội nhập là đề tài tham gia chương trình nghiên cứu của William Joiner Center - Đại học Massachusetts, Hoa Kỳ (2005 - 2007). Đây là chuyên luận đã được nhà văn đầu tư rất công phu đã được in một phần trên Talawas. Đọc chuyên luận này, không ít người quản lý cho rằng tác giả “mất quan điểm lập trường”, thậm chí có người còn cho rằng bị “địch” dật giây, ngược lại có không ít nhà văn “chống cộng” nguyền rủa. Nhưng theo tôi đây là nghiên cứu sâu sắc, chính xác, dũng cảm, có tấm nhìn xa và hay!
Mở đầu chuyên luận, nhà văn nhận định: “Văn học Việt Nam có vị trí cao trong xã hội và trong lòng người đọc ở vào thời gian chiến tranh… Nhưng nó đang đứng trước thách thức lớn buộc phải đổi mới mạnh mẽ, nếu không muốn tụt hậu”. Ai quan tâm tình hình văn học nước nhà trong gần 40 năm qua đều nhất trí với nhận định này. Theo Tô Nhuận Vỹ, văn học Việt Nam hiện nay có 2 nhiệm vụ lớn: “Tự do sáng tác và dân chủ hóa trong hoạt động văn học; góp phần vào hòa hợp hòa giải dân tộc”. Những năm sau chiến tranh, do sự cấm vận quốc tế, do sai lầm trong chỉ đạo kinh tế (cải tạo công thương nghiệp miền Nam, đổi tiền…), đất nước đang đứng trên bờ vực thẳm, không đổi mới sẽ chết. Trước tình hình đó, Đảng đã ra nghị quyết về đổi mới kinh tế như khoán 10 trong nông nghiệp, phát triển kinh tế nhiều thành phần, hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO, ký kết thương mại Việt - Mỹ… Theo Tô Nhuận Vỹ, “Trong những năm xã hội đau đớn, vật vả để thoát hiểm này, đã có một “Giai đoạn oanh liệt của văn học Việt Nam”. Nhiều vấn đề về văn học và quản lý văn học nảy sinh. Xuất hiện nhiều tác phẩm gây chấn động dư luận của Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Phùng Gia Lộc, Trần Huy Quang, Nguyễn Khắc Trường, Hoàng Minh Tường, Nguyễn Đăng Mạnh, Hoàng Ngọc Hiến,… báo hiệu một “thế hệ” nhà văn mới. Bên cạnh đó cũng có một số “vụ” mà tác giả sách Bản lĩnh văn hóa nhắc lại với sự trân trọng “chưa từng có”, “là một hành động dũng cảm phi thường”. Vì nó thể hiện cái mới trong văn học. Đó là vụ “Đề dẫn”, vụ Báo Văn nghệ và vụ Tạp chí Sông Hương. Vụ “Đề dẫn” là Báo cáo của Đảng Đoàn Hội Nhà văn do Nguyên Ngọc dự thảo và đọc tại Hội nghị đảng viên nhà văn toàn quốc năm 1989. Trong đó có những nhận định sắc sảo và chính xác:
“Trong văn học lồ lộ khá rõ là số phận chung của cả dân tộc…, nhưng số phận riêng của từng người, từng thành viên trong đội ngũ lớn đó thì còn khá sơ lược, giản đơn… do vậy tính hiện thực của văn học bị hạn chế”; “Ít lâu nay trong người đọc và trong chính cả người viết,… cho rằng văn học ta đã có sự dừng lại…” có người nói văn học đang thụt lùi, có người lại gọi là “có tình trạng trì trệ”. Cũng có người cho rằng đang có khủng hoảng… có nhiều sách nhưng không có tác phẩm…”; “Người là muối mà chính mình không mặn thì lấy gì để mà muối người”. Văn học, nói theo một cách nào đấy, là lòng tin. Không có lòng tin lớn thì không bao giờ có văn học lớn”. Sau vụ đề dẫn nhà văn Nguyên Ngọc bị mất chức. Nhưng sách Bản lĩnh văn hóa cho rằng đó là sự đổi mới… Từ đó Tô Nhuận Vỹ khẳng định: “Dĩ nhiên ngoài lòng dũng cảm, những con người như Kim Ngọc, Nguyên Ngọc phải có tầm nhìn xa. Họ đã dám và là người đi trước”. Đó là nhận định chính xác. Vụ Báo Văn Nghệ, vụ Tạp Chí Sông Hương bị “cấm vận”, Tổng Biên tập bị cách chức cũng là do bài vở hay quá, mới mẻ quá. Qua 2 tờ báo các nhà văn đã thể hiện những khát vọng tư tưởng sáng tạo của mình. “Một phần thực tế tang thương của đất nước mà chính Đảng chứ không phải ai khác cũng đã báo động là “đất nước đứng bên bờ vực thẳm” đã được các nhà văn tài ba và tâm huyết vạch ra một cách sống động hơn, đau đớn hơn và có sức thuyết phục hơn”. Nhưng do tầm của người quản lý không theo kịp, tư duy cũ kỹ, nên họ không chấp nhận. Bây giờ đọc lại những bài vở đó là nhân văn, không có một chữ nào là “phản động” cả. Tô Nhuận Vỹ đã thở dài cay đắng: “Tôi cho rằng, hành động “xay bột” Tình yêu thời thổ tả và bịa ra kiến nghị của 123 chị em chợ Đông Ba là hai sự kiện thê thảm và khôi hài nhất của văn học và báo chí Việt Nam, từ năm 1975 đến nay”.
Bản lĩnh văn hóa đã lên tiếng báo động: Văn học trước nguy cơ tụt hậu. Đây là phần chuyên đề tác giả viết rất hay, chính luận xen hồi ức, đối thoại, làm cho câu chuyện sinh động và thuyết phục. Thậm chí không nhìn thẳng vào sự thật này thì sự tụt hậu sẽ còn tụt dài và tụt xa nữa. Về chất lượng tác phẩm, trước Đại hội Nhà văn lần thứ 7 vừa qua, Nguyễn Duy nói: “Chúng ta đang có một thực tế văn chương rất mâu thuẫn. Những cái cũ kỹ giáo điều thì vẫn cũ kỹ giáo điều như cũ, người đọc chán rồi, không muốn tiếp nhận nữa. Mặt khác, lại xuất hiện những cái xa lạ, những cái u ơ, ú ớ, ù ờ thần kinh, người đọc không thể tiếp nhận nổi. Cả hai thái cực ấy làm người đọc vừa chán ngán, vừa lo ngại. Người ta ít quan tâm đến văn học đến mức tôi có cảm giác người ta chả cần nhà văn nữa”. Trước Đại hội Nhà văn 7, nhà thơ Hữu Thỉnh, đã nói văn hoa về chất lượng hạn chế của tác phẩm văn học thời gian qua là “độ kết tinh chậm” và nhà văn đang “thiếu khát vọng sáng tạo” để vượt qua các trở lực khách quan và trở lực trong chính mình”. “Thiếu khát vọng sáng tạo” do đâu? Đó là dân chủ dành cho sáng tạo văn học đã thay đổi quá chậm”. Do đó “Nhà văn vốn đã cô đơn, ngày nay càng cảm thấy cô đơn hơn trước dòng thác của các cuộc tìm kiếm lợi ích”.
Vậy “phải thay đổi” thì thay đổi gì? Sách Bản lĩnh văn hóa nêu ra hai vấn đề cốt lõi nhất: a. Thực hiện dân chủ và ủng hộ khát vọng của nhà văn; b. Các nhà văn trong và ngoài nước phải ngồi lại với nhau. Tô Nuận Vỹ kể một câu chuyện rất hay: “Tôi, Phạm Xuân Nguyên và Nguyễn Huy Thiệp đã có một cuộc chuyện trò khá lâu và vui vẻ tại nhà riêng của Nguyễn Huy Thiệp trong một cái ngõ rất lắt léo mạn Khương Hạ. Thiệp cười hì hì rồi lấy một ví dụ nữa rất hay: Cái thằng cầu thủ giỏi, có kỹ thuật khéo léo mới hay dẫn bóng chạy vù vù nơi đường biên, là nơi đối phương dễ nhầm là bóng đã ở ngoài sân, chỉ cần đối phương chần chừ một vài giây là chết mẹ với nó rồi, nó a lê kéo bóng tuốt xuống và tạt vào cầu môn! Lúc ấy mà tay trọng tài gà mờ cứ thấy bóng mới chạm tới đường biên, chưa qua nửa vạch, mà đã cho rằng bóng đã ở ngoài sân, lập tức toét còi thì giết chết hết mấy thằng “siêu” này rồi chứ gì nữa!”. Đó là những ví dụ hay và chính xác về sự quản lý văn nghệ thô thiển, thiếu trình độ.
Theo Tô Nhuận Vỹ các nhà văn bị “trọng tài” thổi còi, từ “nhắc nhở” cho đến thẻ vàng, thẻ đỏ và sau đó còn có người bị treo giò vài ba trận, thậm chí treo giò cả đời thì thấy ôi chao! La liệt người tài trong số đó: Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Văn Cao, Hữu Loan, Phùng Quán, Nguyền Đình Thi, Nguyễn Công Hoan, Hà Minh Tuân, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Xuân Nguyên,… Vì lẽ đó mà nhà văn Nguyễn Minh Châu kể câu chuyện: “Có một nhà văn đàn anh nâng chén rượu lên giữa đám đàn em: “Tao còn sống, còn cầm bút được đến bây giờ là nhờ biết sợ!”. Người như Phùng Quán, “Yêu Đảng hơn cả Đảng” làm hai bài thơ cực kỳ cách mạng là Lời mẹ dặn và Chống tham ô lãng phí, “thế mà bị chà đi xát lại mấy chục năm trời, ôi chao ôi là trời!”
Làm sao để nhà văn không phải “vừa viết vừa sợ”, vừa viết vừa tự biên tập mình”? Câu hỏi lớn xin dành cho người quản lý văn nghệ, văn hóa. Ngoài ra để có cái mới về tư duy, nhận thức thì “Trong thái độ ủng hộ khát vọng sáng tạo, hiểu biết của nhà văn, việc mở rộng giao lưu quốc tế có một tác dụng rất quan trọng”. “Dĩ nhiên, tôi không bao giờ nghĩ một cách ấu trĩ rằng, mọi cái hay về dân chủ của các nước phương Tây đều có thể áp dụng ở nước ta”.
Về chuyện Các nhà văn trong và ngoài nước phải ngồi lại với nhau, Tô Nhuận Vỹ có lý khi cho rằng: “Đối với nhà văn Việt Nam, trước hết và quan trọng nhất trong việc mở rộng quan hệ quốc tế là giao lưu với các nhà văn, các nhà văn hóa, các nghệ sĩ người Việt đang sinh sống và hành nghề ở các nước trên thế giới”. Mặt khác, làm được việc này thì, đội ngũ nhà văn Việt Nam sẽ đóng vai trò đi đầu, là chiếc cầu nối cho việc hòa giải, hòa hợp dân tộc, đặc biệt giữa cộng đồng người Việt ở nước ngoài với đồng bào trong nước, do hoàn cảnh lịch sử, đã để lại một hố sâu ngăn cách, dị biệt chua xót sau chiến tranh”. Cho nên phải nhận ra những cản trở để vượt qua khó khăn. Trắc trở đầu tiên là dòng văn học “căm thù”, “căm hận” (lẫn nhau) qua tác phẩm của các nhà văn trong và ngoài nước. Rồi những chuyện kể cay đắng, đau xót, thê thảm, uất ức của những ngày ở các trại tù cải tạo, cảnh cùng quẫn buộc phải vượt biên để bị hải tặc hiếp vợ rồi quăng con xuống biển ngay trước mắt mình, cảnh bị tịch thu nhà cửa, tài sản ngay sau ngày chiến thắng, chuyện con cái tuyệt đường học tập vì lý lịch cha mẹ… Mà rất hiếm, quá hiếm hoi, những hiểu và biết về các địa ngục trần gian, những “chuồng cọp” đày đoạ những người cách mạng và yêu nước ở Sở thú Sài Gòn, Chín Hầm, Côn Đảo, Phú Quốc, về sự tan nát thê lương của hàng ngàn làng quê thành phố, về những nỗi đau khủng khiếp của hàng triệu bà mẹ mất con mất chồng “của phía bên kia” trong chiến tranh…” Lại còn một thực tế thế này nữa: “Trừ đi số chống cộng cực đoan khó nói chuyện, không hiếm trí thức Việt kiều cứ hễ nói đến chuyện trong nước, nói đến người cộng sản Việt Nam thì đều cho là ngu dốt, bảo thủ và tay sai ngoại bang!”.
Để “ngồi lại với nhau” các nhà văn Việt trrong nước cũng như hải ngoại, phải có suy nghĩ như cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt: “Ba mươi năm qua, có những bà mẹ ngày ngày thắp hương cho những người con của mình, người là chiến sĩ giải phóng đã hy sinh, người là lính của chế độ Sài Gòn đã tử trận. Phải chăng đã đến lúc chúng ta cần thấu hiểu tâm tình của người mẹ Việt Nam, cùng thắp nén nhang cầu cho linh hồn của những người con của mẹ được siêu thoát”…
Kết thúc chuyên luận, nhà văn Tô Nhuân Vỹ dẫn lời của Giáo sư Cao Huy Thuần, một nhà văn Việt ở Pháp: “…Văn nghệ sĩ hãy làm đi, đừng chờ đợi ai khác. Tự mình mở ra không gian cho mình. Nếu đến bây giờ mà văn nghệ sĩ không cùng nhau ‘khoán’ được một xã hội dân sự văn học để làm cái chuyện thông cảm nhau, ‘đọc nhau’, như anh đề nghị, thì chúng ta còn làm cái gì được nữa? Chuyện đó, Nhà nước coi bộ cũng muốn, cũng thấy cần thiết. Nhà nước đã muốn, anh sáng tạo ra bước đi, đó chẳng phải là chức năng của anh sao? Anh chờ ai?”
Hãy đọc Bản lĩnh nhà văn để hiểu bản lĩnh và sự dấn thân, tấm lòng và trách nhiệm, nguyện vọng và trăn trở của nhà văn Việt Nam hôm nay.
N.M
(SH304/06-14)
NGUYỄN GIA NÙNGCả cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của Cao Bá Quát là một chuỗi dài những bi kịch của cuộc tìm kiếm không ngừng, không nghỉ về lẽ sống ở đời, về vai trò của văn thơ nói riêng, về kẻ sĩ nói chung. "Mình là ai?" "Mình có thể làm được gì? Làm thế nào để có thể tự khẳng định mình và có thể giúp ích được cho đời?" Có thể nói những câu hỏi ấy luôn trăn trở, dằn vặt trong con người Cao Bá Quát từ khi tự ý thức được tài năng của mình cho đến lúc từ giã cõi đời mà vẫn chưa tìm được lời giải đáp trong một chế độ đầy rẫy bất công, phi lý mà mọi con đường để thoát ra, với ông, đều mờ mịt và chính ông, dù đã cố công tìm, bế tắc vẫn hoàn toàn bế tắc.
THẠCH QUỲBài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được tuyển chọn để giảng dạy ở trường phổ thông vài chục năm nay. Đó cũng là bài thơ xuất sắc được bạn đọc cả nước yêu mến. Tuy vậy, cho đến hôm nay, cái hình ảnh “Mặt chữ điền” đầy sức quyến rũ và ám ảnh ấy vẫn chưa được nhận chân, nhận diện một cách chính xác.
HỒ THẾ HÀNhư một quy luật hiển nhiên, có sáng tác văn học thì sớm muộn gì cũng có phê bình văn học và lý luận văn học, càng về sau, có thêm các phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học - với tư cách là trường phái, trào lưu nối tiếp nhau nhằm tiếp cận và giải mã tác phẩm ngày một đa dạng, tối ưu, hiện đại để không ngừng làm đầy những giá trị và ý nghĩa chỉnh thể của tác phẩm văn học.
PHONG LÊTrong văn học Việt Nam, trước trào lưu hiện thực, hình ảnh người trí thức đã có mặt trong khuynh hướng lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Đó là các nhân vật trong vai điền chủ, luật sư, quan lại - có vốn tri thức và có chút băn khoăn, muốn nhìn xuống nỗi khổ của những người dân quê, và mong thực hiện một ít cải cách cho đời sống họ đỡ tối tăm và đỡ khổ.
MÃ GIANG LÂNCách nhân bản thơ, xuất bản thơ bằng "công nghệ sạch" của loài người có từ ngày xửa ngày xưa dưới hình thức ngâm thơ và đọc thơ. Người Việt chúng ta ngâm thơ là truyền thống. Tiếng Việt nhiều thanh, giàu tính nhạc, giọng ngâm có sức vang, sức truyền cảm.
TRIỀU NGUYÊN1. Chương trình Văn học lớp 11, chỉnh lí năm 2000, phần tác giả Cao Bá Quát, bài Đề sau khúc Yên Đài anh ngữ của ông đô sát họ Bùi, giảng một tiết, được thay bằng bài Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây). Cả sách học sinh và sách giáo viên đều không có chú thích gì về "hành", ngoài cách chuyển y khi dịch sang tiếng Việt như vừa ghi.
ĐIỀN THANHAndy Warhol nổi tiếng là người đùa rỡn với chuyện danh tiếng, nhưng niềm say mê của ông với sinh hoạt hiện đại có hàm chứa một không gian tối xám hơn nhiều. Đó là việc ông bị ám ảnh bởi cái chết, điểm này cho mỗi chúng ta biết nhiều nhất về tinh thần của thời đại ngày nay…
ĐINH VŨ THUỲ TRANGThời Đường là thời đại cực thịnh của dân tộc Trung Hoa về mọi mặt, trong đó có thơ ca. Câu nói này có vẻ sáo mòn nhưng không thể không nhắc đến khi nhìn vào những trang sử vàng son ấy. Chúng ta biết đến ba nhà thơ lớn đời Đường là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị... Nhưng phải nói rằng, chỉ đọc thơ của họ thì chưa thấy hết được cái hay của thơ Đường. Bởi lẽ, các nhà thơ tuy cùng khuôn luật, cùng chủ đề... nhưng mỗi người đều riêng khác nhau.
LÝ HOÀI THUSự vận động và phát triển của một giai đoạn văn học luôn diễn ra song hành cùng sự vận động và phát triển của các loại thể văn học. Nói một cách khác: sức sống của một giai đoạn văn học được biểu hiện rõ rệt nhất qua diện mạo thể loại. Chính vì vậy, thể loại vừa là sự "phản ánh những khuynh hướng lâu dài và hết sức bền vững của văn học" (1) vừa là sự hồi sinh và đổi mới liên tục qua mỗi chặng đường phát triển.
INRASARA (Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009)
HÀ VĂN THỊNH Những cái tên - có lẽ không giản đơn như cách nói của người Nga - " Người ta gọi tôi là...” Ở đây, lớp vỏ của ngôn từ chỉ diễn tả một khái niệm mù mờ nhất của một lượng thông tin ít nhất.Trong khi đó, có bao giờ ta nghĩ rằng một cái tên, không ít khi hàm chứa thật nhiều điều - thậm chí nó cho phép người khác biết khá rõ về tính cách, khả năng và ngay cả một phần của số phận của kiếp người?
HÀ VĂN LƯỠNG1. Ivan Bunhin (1870-1953) là một nhà văn xuôi Nga nổi tiếng của thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông trải qua những bước thăng trầm gắn với nhiều biến động dữ dội mang tính chất thời đại của nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XIX và mấy chục năm đầu thế kỷ XX.
LÊ THÀNH NGHỊCâu hỏi “ta là ai?”, “ta vì ai” nổi tiếng của Chế Lan Viên tưởng đã tìm ra câu trả lời có chứa hạt nhân hợp lý của thời đại trong thơ chống Mỹ đã không còn đủ sức ôm chứa trong thời kì mới, khi nhu cầu xã hội và cá nhân đã làm thức tỉnh cái tôi trữ tình của người làm thơ. Nhu cầu xã hội thường là những gì bức thiết nhất của thực tại, do thực tại yêu cầu. Chẳng hạn, thời chống Mỹ đó là độc lập tự do của dân tộc. Tất cả những hoạt động tinh thần, trong đó có sáng tác thơ văn, nếu nằm ngoài “sự bức thiết thường nhật” này không phù hợp, không được đón nhận... và vì thế không thể phát triển. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, với chủ trương đổi mới, trong xã hội ta, nhu cầu bức thiết nhất, theo chúng tôi là khát vọng dân chủ.
LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.
INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?
VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.
HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).
THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.
NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...
TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!