Kỷ niệm thời thơ ấu là tên cuốn hồi ký được viết bằng tiếng Pháp của tác giả Hoàng Thị Thế, con gái thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám (Đề Thám) - người anh hùng của núi rừng Yên Thế trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp những năm đầu thế kỷ XX. Cuốn sách được dịch giả Lê Kỳ Anh (bút danh của nhà thơ Hoàng Cầm) dịch ra tiếng Việt bằng ngôn ngữ tài hoa, trong sáng.
Ký ức về nguồn cội
Tác giả Hoàng Thị Thế sinh năm 1901 là con gái ruột của Đề Thám với bà Ba Cẩn (Đặng Thị Nho). Cuốn sách của bà tái hiện lại khung cảnh của vùng Yên Thế - Bắc Giang những năm cuộc chiến đấu của nghĩa quân Yên Thế do Đề Thám chỉ huy đã đi đến thoái trào. Và đó cũng là những năm ấu thơ sâu đậm, nhiều nhung nhớ, buồn bã trong lòng cô bé Hoàng Thị Thế.
Bằng giọng kể trong trẻo bà viết: “Tuổi ấu thơ của tôi. Hiện tôi vẫn còn nhớ những ngày sung sướng ở bên cạnh cha mẹ thân yêu, ở Yên Thế”. Ở phần giới thiệu về nguồn gốc gia đình, bằng trí nhớ sâu sắc về nguồn cội tác giả đã kể xuất xứ gia tộc cũng như những mối quan hệ ruột thịt, thân thích đủ để người đọc có thể hình dung rõ ràng về một gia đình dòng dõi. Và cũng trong những lời kể đó, cha mẹ bà, hay mẹ Cả, anh Cả và những người thân được khắc họa giản dị và sinh động.
Trong bối cảnh thực dân Pháp đang xâm lược và tìm cách dập tắt những cuộc khởi nghĩa của những người yêu nước. Nhưng với sự hồn nhiên của trẻ thơ, tác giả vẫn cảm nhận được sự bình yên, đầm ấm, vui vẻ mà cha mẹ đã tạo ra cho mình. “Ôi, luyến nhớ biết bao, dưới nếp nhà ấm cúng ấy, những lần tôi đau ốm, cha mẹ tôi vẫn lo lắng cúi người xuống, lấy tay sờ cái trán nóng hầm hập của tôi. Rồi để dỗ tôi uống thuốc cha tôi buộc phải uống nửa chỗ thuốc, mặt vờ nhăn nhó để làm tôi cười. Còn mẹ tôi khéo léo nhẹ nhàng đổ thuốc vào miệng tôi”. Có lẽ, với người đọc hôm nay, đặc biệt là những ai quan tâm đến lịch sử thì đây là những chi tiết quý giá mà không cuốn lịch sử nào ghi lại được. Chúng ta biết đến một Đề Thám trong cuộc sống gia đình cũng như trong những đối đãi thường ngày. Một người anh hùng xuất chúng của dân tộc nhưng cũng là một người cha. Những tình cảm gần gũi, ấm áp ấy gợi lên nỗi buồn vàng son quá vãng khi tác giả hồi tưởng lại. “Rồi nữa, dưới nếp nhà thân quen ấy, sáng nào cha tôi cũng dậy sớm hơn mọi người, rồi nằm suy nghĩ lao lung trên chiếc sập kê bên cạnh buồng chúng tôi. Nửa giờ sau, thì mẹ tôi cắt đặt người nhà rồi, đến hôn hít đánh thức tôi dậy. Nếu tôi chưa chịu dậy ngay thì mẹ tôi vừa hôn vừa cù vào cổ, ẵm tôi đặt lên đầu gối cha tôi. Tiếp đó mẹ xuống bếp, lấy trà lên rót cho cha tôi uống, lại đưa cả điếu đến”.
Trong dòng hồi ức của mình, tác giả Hoàng Thị Thế còn nhớ rất rõ cuộc sống của gia đình mình và nghĩa quân, nhân dân Yên Thế trong những tháng năm ấy. Trong đó có cả những chi tiết vui nhộn khi người anh Cả lấy vợ tư, ngày mùa màng bận bịu, những đứa trẻ chơi đùa, tâm trạng người lớn qua con mắt trẻ thơ, và những sự kiện trọng đại liên quan đến vận mệnh con người hay lịch sử. Từ đó người đọc có thể thấy một cách rõ nét nghĩa quân Yên Thế khi xưa đã chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu như thế nào, những mối quan hệ bang giao của thời đó. Và hiện lên như một biểu tượng của Yên Thế chính là Đề Thám trọng tình nghĩa, dũng cảm, nghĩa khí bên cạnh một bà Ba Cẩn tài sắc - người không thể không nhắc đến trong những công lao và cuộc đời ông.
Nỗi buồn tha hương và niềm kiêu hãnh dân tộc
Lịch sử xoay vần, đổi thay chỉ trong chớp mắt. Cuốn sách hé lộ những ngày tháng sa cơ của gia đình và cuộc khởi nghĩa của người cha tác giả, rồi tiếp đó là những năm tháng sống tha hương trên chính đất nước tự nhận là “mẫu quốc” khi họ đến xâm lược Việt Nam. Qua câu chuyện với những người Pháp là những nhân vật quan trọng ta thấy người con gái của đất Yên Thế đã sống trên đất Pháp, với người Pháp bằng lòng kiêu hãnh và trí thông minh xuất chúng kế thừa từ cha mẹ và ý chí của dân tộc mình. Bà nói về những cuộc vui và sự xa hoa nhưng phía sau đó là một nỗi buồn khôn khuây. “Nước Pháp. Những năm tôi đã trưởng thành. Những năm của một thiếu nữ Việt Nam, người con của đất rừng Yên Thế đang sống xa Tổ quốc - quê hương. Những cuộc tiếp xúc, những bữa ăn và những cuộc đi đây đi đó ở nước Pháp và các nước Âu Tây, nhiều người đã biết tôi, bởi họ biết cha tôi và cuộc đề kháng ở Yên Thế từ lâu. Họ đến để chiêm ngưỡng giọt máu của Đề Thám - bà Ba Cẩn và rất nhiều cựu binh, quan lại Pháp ở Đông Dương về, ôn lại những kỷ niệm đẫm máu khó phai mờ”.
Không phải là lịch sử. Nhưng cuốn hồi ký như một cách nhìn về lịch sử trong một không gian, bối cảnh nhất định bởi những con người những nhân vật trong cuốn sách đã góp mình làm nên lịch sử. Người ta nhắc đến Hoàng Thị Thế là con gái cưng của Đề Thám, là con đỡ đầu của Tổng thống Pháp Paul Doumer, là diễn viên điện ảnh, là người có vận mệnh khác thường... Đó là những điều đáng chú ý nhưng sâu sắc hơn trong cuốn hồi ký này người đọc thấu hiểu hơn về đất nước mình, về lịch sử dưới những góc nhìn khác nhau qua con mắt của người trực tiếp trải qua những giai đoạn biến của cố lịch sử. Với riêng người viết bài này thì sau tất cả, tôi ấn tượng với phong cách sống trên đất Pháp và cách nghĩ của tác giả. Dù đó là những năm đất nước đang muôn vàn khó khăn thì trên đất Pháp, qua cuộc trò chuyện với nhà văn, nhà báo Pháp Pierre Mille của tác giả ta thấy được cuộc sống xa hoa của bà. Nhưng ẩn sâu trong đó là lòng kiêu hãnh, sự tự tôn dân tộc và nỗi buồn thương vọng về quê cha đất mẹ. Cũng như trong lần gặp lại Alfred Bouchet, một kẻ khét tiếng gian giảo, xảo trá, kẻ thù của Đề Thám, chỉ qua vài câu đối thoại cực kỳ thông minh bà như đã “tát” vào mặt hắn ta một cú đau đớn. Bởi còn người em trai ruột mà bà nặng lòng đang sống ở trong nước nên nỗi căm hận ấy đã bị kiềm chế phần nhiều.
Sau nửa thế kỷ tha hương, tác giả trở lại với những vui buồn thân phận và thời cuộc. Nhưng trên hết, đó là một nỗi nhớ thương buồn bã, vời vợi nhưng cũng đã phần nào nguôi ngoai trong cảnh đất nước thanh bình. “Luyến nhớ bao nhiêu, những ngày oai hùng của cha mẹ tôi, của các anh chị, các chú bác, các tướng lĩnh dũng cảm khoan cường trên núi rừng Yên Thế, tôi bâng khuâng trên giang sơn gấm vóc mạnh giàu...”.
Kỷ niệm thời thơ ấu đã được Ty văn hóa Hà Bắc xuất bản lần đầu vào năm 1975, nay được Công ty sách Omega Việt Nam tái bản và bổ sung từ những nguồn tư liệu quý báu và qua những nhân vật xác thực.
Theo Kim Nhung – VNQĐ
Hội Nhà văn Việt Nam được chính thức thành lập từ năm 1957, sau Hội nghị thành lập Hội diễn ra tại trụ sở Câu lạc bộ Đoàn Kết, từ 1/4 đến 4/4/1957. Trong lịch sử văn học Việt Nam thời hiện đại đây là lần đầu tiên có một tổ chức của những người lao động văn học trên toàn quốc.
Tái hiện bức tranh Hà Nội thời bao cấp, rồi từ đó đi tìm cái chất nhân văn thuần nhất trong đời sống con người, “Chuyện ngõ nghèo” là cuốn tiểu thuyết đánh dấu sự trở lại của Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh năm 2017 sau một loạt các tiểu thuyết đình đám như: Mẫu Thượng Ngàn, Hồ Quý Ly, Đội gạo lên chùa…
1. “Thiện, Ác và Smartphone” là tập tiểu luận thứ hai của Đặng Hoàng Giang, sau “Bức xúc không làm ta vô can” - cuốn sách ra mắt năm 2015 và gây được tiếng vang rộng rãi.
Nhân chuyến trở lại Việt Nam truyền giảng phật pháp, ngày 4-4, Tiến sĩ Phật học Khangser Rinpoche đến từ Ấn Độ đã dành nhiều thời gian giao lưu cùng bạn đọc tại TPHCM.
Nguyễn Trí được biết đến vào năm 2013 khi tác phẩm Bãi vàng, đá quý trầm hương (NXB Trẻ) đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. “Sự nghiệp” cầm bút của Nguyễn Trí đến nay mới chỉ 5 năm nhưng ông đã có 9 cuốn sách truyện dài, truyện ngắn ra đời.
Phan Việt vừa có buổi giao lưu về tác phẩm mới nhất, cũng là tác phẩm chị cho là quan trọng nhất trong bộ ba "Bất hạnh là một tài sản" của mình.
Sáng 21-3, tại trụ sở Hội Nhà văn TPHCM, đã diễn ra buổi ra mắt tập tiểu luận, phê bình Nhà văn Lê Văn Thảo trong lòng đồng nghiệp do Hội Nhà văn TP thực hiện (NXB Hội Nhà văn xuất bản).
Nhà sách Trí Việt cho biết sau gần 3 năm thực hiện với 6 lần chỉnh sửa, Hội đồng thẩm định cuốn sách “Gạc Ma - Vòng tròn bất tử” do Ban Tuyên giáo TƯ thành lập đã đồng ý cho phép xuất bản cuốn sách này.
Lịch sử phát triển của hệ thống thể loại báo chí cho thấy Bút ký chính luận giữ một vai trò quan trọng trong việc định hướng xã hội. Nó là thể loại không thể thiếu trong việc giáo dục tư tưởng, chính trị cho quần chúng. Trong một thế giới đương đại, trong một xã hội bùng nổ thông tin với nhiều biến động, Bút ký chính luận càng trở nên quan trọng và cần thiết cho đời sống.
Ngày 4 và 5/1, Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam tiến hành họp để bình chọn bảy tác phẩm xuất sắc của làng viết năm qua. Kết quả được công bố hôm 10/1.
Nghiên cứu công phu, tư liệu chính xác, văn phong mạch lạc và giàu cảm xúc, tác phẩm Văn chương phương Nam - một vài bổ khuyết của hai tác giả Võ Văn Nhơn và Nguyễn Thị Phương Thúy không chỉ khiêm tốn “bổ khuyết” mà là công trình giàu tâm huyết với những khám phá ngạc nhiên mới lạ rất hữu ích.
Nói về cuốn sách phê bình văn học Giăng lưới bắt chim của mình, Nguyễn Huy Thiệp hay nhắc lại điều thoạt tiên tưởng rằng ông "lấp lửng": tôi viết có đúng có sai, có chính xác có nhầm lẫn, viết khi mình "đang còn nửa mê nửa tỉnh".
Có một thực tế là rất nhiều người song hành giữa việc viết văn và viết báo. Xét về góc độ thể loại thì văn học và báo chí là hai thể loại khác nhau nhưng giữa chúng lại có sự tương đồng với nhau về nhiều khía cạnh. Vì thế việc song hành giữa văn chương và báo chí là điểu dễ hiểu.
hông biết đã đến đáy chưa thảm trạng tác giả (khoa học và nghệ thuật) bị xâm hại trắng trợn về bản quyền như hai công trình về dân tộc học của GS.Từ Chi, và về sử học của GS.Trần Quốc Vượng. Hai tác giả có tên tuổi đã quá cố, và những nhà xuất bản gây nên sự cố, làm méo mó, biến dạng đứa con tinh thần của họ lại là những nhà xuất bản có những cái tên rất sang, là cơ quan ngôn luận của những cái hội nghề nghiệp lẽ ra phải rất nghiêm chỉnh, đứng đắn trước công luận. Các cơ quan truyền thông đã lên tiếng. Không biết gia đình, thân nhân của hai tác giả có ý kiến gì không? Ta đã có lệ luật gì về những vụ việc như vậy, để đưa ra tòa án dư luận?
Chiều 7.10, Hội đồng giám khảo giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội gồm các nhà văn, nhà thơ: Bằng Việt, Nguyễn Việt Chiến, Phạm Xuân Nguyên, Bùi Việt Mỹ, Nguyễn Sĩ Đại, Lê Minh Khuê, Đoàn Tử Huyến, Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Thành Phong đã họp phiên chung khảo.
Ngày 4/10, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đến dự và phát biểu tại Hội thảo khoa học toàn quốc “Văn học, nghệ thuật với việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam” do Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác phẩm văn xuôi, trong đó có truyện ngắn xuất hiện trên báo chí đã trở thành món ăn tinh thần nhiều năm nay cho độc giả. Tuy nhiên, dường như món ăn tinh thần này đang ngày càng có xu hướng bị co lại, bị thay thế.
Sáng tạo văn học nghệ thuật về đề tài chiến tranh, cách mạng thời gian qua đã có nhiều đổi mới và được giới chuyên môn ghi nhận.
Viết về cuộc Cách mạng mùa Thu 70 năm về trước, nhà văn Nguyễn Đình Thi - người can dự, đồng thời là chứng nhân của cuộc cách mạng vĩ đại đó (Năm1945 ông dự Hội nghị Quốc dân Tân Trào và được cử vào Ủy ban Giải phóng dân tộc; sau đó được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I là Ủy viên thường trực) đã ví nó giống như “một cuộc lột vỏ”, “rũ bùn” đứng lên của con người, của dân tộc Việt Nam: Súng nổ rung trời giận dữ/ Người lên như nước vỡ bờ/ Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa (Đất nước).
Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới về văn hóa văn nghệ được đề ra trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986), văn học Việt Nam đã có nhiều bước chuyển sâu sắc, đạt nhiều thành tựu đáng kể trên tất cả các thể loại, góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền tảng văn hóa, tinh thần của con người và xã hội.