Yveline Féray, nhà văn Pháp độc đáo viết về Việt Nam

10:32 10/07/2009
LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

Nhà văn Yveline Féray (Ảnh: tuoitre.com.vn)

Làm báo và dạy học nhiều năm ở Campuchia, từ đó bà đã viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên của đời mình: Lễ hội Nước (La Fête des Eaux) do Nhà xuất bản Pháp Albin Michel cho ra đời năm 1966. Nhờ công trình này, bà đã được tặng thưởng huân chương tình hữu nghị cao cả (Ordre du Sahamenei) của nhà vua Norodom Sihanoukt.

Nhưng phải đợi đến những năm cuối 80 của thế kỷ trước, đông đảo độc giả mới thấy cả chiều sâu và chiều rộng tài năng xuất sắc của bà. Trong hai năm 1982-1983, bà đã làm một cuộc hành trình du khảo ở Việt Nam do Nhà xuất bản Pháp Gulliard giúp đỡ. Những năm tháng đi sâu nghiên cứu ở Việt Nam đã giúp cho bà nghiên cứu kỹ lưỡng một giai đoạn quan trọng lớn lao của nước Đại Việt (tên nước Việt Nam lúc đó) trong thế kỷ 15. Yveline Féray đã tìm hiểu tận cùng lịch sử Việt Nam trong thời kỳ đó, đặc biệt là cuộc đời và tác phẩm của Nguyễn Trãi, nhà chiến lược, nhà chính trị, nhà thơ lỗi lạc đã cùng với Lê Lợi và quân dân Đại Việt đánh tan quân phong kiến nhà Minh, giải phóng tổ quốc khỏi ách đô hộ Trung Hoa.

Từ đó, bà đã cho ra đời bộ tiểu thuyết Vạn Xuân (Dix mille printemps) dài trên nghìn trang nói về Nguyễn Trãi, Lê Lợi trong giai đoạn hào hùng ấy. Vạn Xuân được xuất bản ở Pháp năm 1989, đến năm 1996 được tái bản bằng hai tập do Nhà xuất bản Picquier. Và đến tháng tư năm 2000 đã được dịch ra tiếng Việt, sau đó cũng được tái bản do Nhà xuất bản Văn học (Hà Nội). Từ khi ra đời, bộ tiểu thuyết trên được đánh giá và công nhận như một tác phẩm cổ điển về một giai đoạn lịch sử Việt Nam trực tiếp viết bằng tiếng Pháp, một công trình to lớn, đề tài cho nhiều cuộc hội thảo văn chương ở Pháp. Dư luận Pháp đánh giá những sáng tạo văn học của bà một hiện tượng độc đáo viết về Việt Nam và Châu Á với một thể loại văn học hội nhập hoàn toàn với một nền văn hoá nước ngoài mà đây là nước Việt Nam.

Để tưởng thưởng công lao đặc biệt đó, tháng 11 năm 2002 bà đã được Chủ tịch Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng Huân chương Hữu nghị cao quí dành cho những người nước ngoài đã có nhiều công lao to lớn cho nước Việt Nam. Chúng ta biết rằng trong 50 năm qua, Chính phủ Việt Nam chỉ mới tặng thưởng huân chương này cho hai mươi nhân vật xuất sắc nước ngoài. Tại Paris, từ bàn tay của Đại sứ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trao tặng, bà đã xúc động nói không nên lời.

Tháng 4 năm 2000, lại một tiểu thuyết hay dày trên 300 trang về Việt Nam được ra đời do Nhà xuất bản Robert Laffont ở Paris: Lãn Ông (Monsieur Le Paresseux) với đề tài về Lãn Ông Lê Hữu Trác, đại danh y sư Việt Nam thế kỷ thứ 18. Năm 2005, tác phẩm này được dịch ra tiếng Việt Nam do Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh ấn hành và đã được tái bản. Đông đảo độc giả Việt Nam và Pháp lại có dịp nhiệt liệt tán thưởng những nỗ lực không mệt mỏi của bà, nhất là với những đề tài về Việt Nam.

Bà cũng là một cây bút cự phách chuyên viết về Việt Nam và Châu Á, nhất là qua một loạt truyện lần lượt ra đời ở Pháp: truyện hoang đường và truyền thuyết của các bà cụ Việt Nam, của bà cụ Campuchia, của bà cụ Trung Hoa và của bà cụ Tây Tạng.

Qua những tác phẩm nổi tiếng trên, bà đã nhận được nhiều giải thưởng từ nước Pháp: năm 1976, giải thưởng lớn các nhà văn phương Đông cho tiểu thuyết Những người dạo đêm (Les promeneurs-de-nuit), năm 1989, giải thưởng châu Á và giải thưởng lớn về tiểu thuyết của thành phố Cannes cho bộ tiểu thuyết Vạn Xuân và nhiều giải khác.

Từ 1966 đến 2006, bà đã có 26 lần nói chuyện khắp nơi ở Pháp trong đó có 10 lần nói chuyện về Châu Á và Việt Nam với các đề tài khá mắc mỏ: Cuộc sống ở Hà Nội thời Nguyễn Trãi (1996), viết về nước Việt Nam xưa bằng tiếng Pháp (6/2002), truyện hoang đường và truyền thuyết Việt Nam, những cách nhìn gặp nhau (2001).

Niềm vui của Yveline Féray và của đông đảo độc giả trong ngoài nước Pháp càng dâng cao khi ngày 12 tháng 10 năm 2008 mới cách đây 5 tháng bà lại được chính phủ Pháp trao tặng Huân chương Hiệp sĩ Nghệ thuật và Văn chương (Chevalier de l’Ordre des Arts et des Lettres). Đây là một loại huân chương rất cao quí do Chính phủ Pháp lập ra từ năm 1957 để tưởng thưởng cho những cá nhân đặc biệt nổi tiếng do những sáng tạo của họ trong lĩnh vực nghệ thuật loại văn chương rực sáng ở nước Pháp và trên thế giới. Ta nhớ lại năm 1994, danh họa Việt Nam và thế giới Lê Bá Đảng và năm 2001, tiểu thuyết gia nổi tiếng Trung Quốc Mạc Ngôn cũng được nhận huân chương này.

Năm năm trước, bà đã quay về thành phố quê hương Dinan và ngày hôm đó, bà rất tự hào và xúc động phát biểu hàm ơn sâu sắc nhân dân Việt Nam, luôn luôn xem Việt Nam là tổ quốc thứ hai của mình.

Thật vậy, bà có lòng yêu mến Việt Nam một cách kỳ lạ: bao nhiêu công lao đọc sách, tìm tòi tư liệu về Việt Nam, gặp gỡ các nhà lãnh đạo Việt Nam (Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp), các nhà tri thức nổi tiếng (Cù Huy Cận, Nguyễn Đình Thi), nhờ người dịch Hoàng Lê nhất thống chí, Thượng Kinh ký sự ra tiếng Pháp để viết về Lãn Ông. Tủ sách của nhà bà có 7000 cuốn mà các tác phẩm về Việt Nam và châu Á chiếm một số lượng đáng kể. Chồng bà gốc Ấn Độ là giáo sư sử học Đông phương mà bà đã nói đây là người động viên, người đọc đầu tiên và người luôn luôn đòi hỏi bà phải viết hay hơn. Phong cảnh và hình ảnh Việt Nam tràn đầy trong nhà bà. Bà mặc áo dài màu xanh và chuẩn bị lễ Tết như người Việt. Quá yêu mến nên lấy tên Vạn Xuân để đặt cho ngôi nhà biệt thự của bà ở thành phố Dinan.

Chỉ gặp tôi có 10 phút tại cuộc “Gặp gỡ Auguste Pavie” ở Dinan, sau khi nghe nói tôi đã đọc tiểu thuyết Vạn Xuân (Dix mille printemps) của bà, bà đã tặng tôi cuốn Lãn Ông (Monsieur Le Paresseux). Ngọn nắng ngoài trời Dinan lúc đó, ngọn nắng yêu thương của bà với Việt Nam hoà vào ngọn nắng nhiệt tình trong tôi đã giúp tôi nhanh chóng hoàn thành bản dịch tiểu thuyết Lãn Ông. Trong lời giới thiệu khi Lãn Ông lần đầu tiên được dịch và xuất bản ở Việt Nam, bà có viết: “Việt Nam luôn ở trong các bước ngoặt của lịch sử mà ta cần khám phá nhiều hơn”. Trong lời giới thiệu đó cũng như trong bài diễn văn nhận Huân chương Hiệp sĩ ở Pháp (10/2008) bà luôn kết thúc chân tình với câu nói cửa miệng của Việt Nam là: “ngôn bất tận tình”. Chúng ta cảm động sâu sắc và hy vọng tràn trề về những tác phẩm tới của bà về đất nước chúng ta.

Các tiểu thuyết lớn của Féray: Vạn XuânLãn Ông đã được xuất bản và phổ biến rộng rãi ở nước ta. Sau đây ta cùng xem một đoạn trích trong “Tập truyện hoang đường và truyền thuyết của bà cụ Việt Nam”, đoạn nói về Đinh Bộ Lĩnh thế kỷ 10. Sự hiểu biết tường tận về lịch sử Việt Nam, cốt truyện rành mạch và văn phong tao nhã là đặc điểm tài năng của bà.

L.T.S


Đinh Bộ Lĩnh - Vạn thắng Vương

Tất cả chúng ta đều biết những con rồng đem lại cho con người sức mạnh và hạnh phúc.

Sử kể lại rằng hồi xưa, vào thời đại nhà Ngô (939-965) và Thập nhị sứ quân có một con rái cá khổng lồ sống trên con sông gần vùng Hoa Lư tỉnh Ninh Bình.

Không ai biết nó đến từ đâu và xuất hiện từ lúc nào. Chỉ biết rằng trong lúc sống nó có vô số việc làm bất hảo như thực hiện các vụ cướp giật chuồng gà vịt và bắt cóc phụ nữ. Những người dân quanh vùng bao phen muốn tống khứ nhưng nó không khi nào rời khỏi con sông và trở nên khó hạ được. Không ai biết bơi lội giỏi và lâu hơn nó giữa hai dòng nước để đuổi bắt tôm cá, ếch nhái, chuột... làm thoả mãn thói tham ăn vô hạn độ của mình. Không ai chịu đựng nổi cái lạnh giá rét và đầy ẩm ướt như nó. Không ai ngấu nghiến mạnh đến nỗi tan xương nát thịt như nó.

Thế là toàn thể dân cư quanh vùng đều dè chừng nó và đặc biệt các cô gái càng tránh xa những bờ sông.

Khốn thay người vợ cao quí của ông Đinh Công Trứ nào đó là tri phủ trong vùng Hoan châu lại không hay biết chút gì về sự xuất hiện của con rái cá khổng lồ này. Chẳng thế thì sao bà ta lại cho dừng lại nơi đây chiếc cáng của mình?

Thế là ngày đó, một ngày quá nóng nực, người phụ nữ trẻ vô lo này dừng lại và xuống tắm trên dòng sông, phản chiếu những đỉnh cao tươi xanh cây cối của nhiều ngọn núi bao quanh. Chỉ thấy một nguồn nước trong suốt mát rượi ve vuốt suốt chiều dài bắp chân, bắp đùi, hai bên háng, bà không thấy được dưới bề sâu trong cát một bóng đen to lớn đang bò tới, duy chỉ có tiếng nước vỗ bập bềnh làm bà chú ý. Đã quá muộn khi bà thấy những cặp chân rái cá quấn quanh thân mình. Bà la hét to lên khi dòng nước cuốn đi.

May sao, những người đi theo thấy bà giãy dụa với tiếng la hét dồn dập. Khi thấy những dòng nước xoáy dữ dội, họ chắc rằng bà chủ đã là miếng mồi ngon của con giao long. Họ đưa bà lên bờ mà con thuỷ quái vừa đẩy ra và tìm mọi cách làm bà tỉnh lại, xoa bóp cho bà, gọi to vào tai bà, thử mở rộng hàm xai bà với một chiếc thoa, cho bà hít một loại hạt thuốc cháy thành than và ấn mạnh vào dạ dày để bà hắt hơi.

Bà nôn ra nhiều nước và một vài lá cỏ. Sau cùng, bà đã có thể mở được đôi mắt hoảng sợ trước những khuôn mặt lo lắng. Mà với ai đây, bà có thể thổ lộ là con rái cá đã hiếp bà và bà đã tiếp thụ tinh dịch của nó?

Thật vậy, một thời gian sau bà đã mang thai.

Còn những người dân Hoa Lư thì tin chắc rằng cuộc tấn công vào bà vợ của quan phủ là một hành động xấu xa mới của con rái cá theo kiểu hành vi nhục dục của con rùa. Họ tổ chức nhiều cuộc săn bắt và cuối cùng lấy được bộ da của con rái cá khổng lồ này.

Vậy thì bà vợ trẻ này, nạn nhân của nó, bố trí sắp đặt thế nào đã thu lượm được bộ xương và thu giấu nó trong nhà bếp của bà? Điều này không thấy lịch sử nói đến.

Mấy tháng sau, khi có một luồng sáng nhẹ chói vào ngôi nhà quan phủ, bà sinh hạ một con trai và đặt tên là Đinh Bộ Lĩnh.

Sau khi ra đời, cậu bé có một khuôn mặt đặc biệt khêu gợi sự ngắm nghía của mọi người, trên lưng cậu có ba túm lông rái cá đen và láng bong. Đến khi biết đi, cậu chạy băng đến chiếc ao sen trước mặt nhà, nhảy tòm xuống và bơi lội một cách diệu kỳ.

Nhưng đó không phải là tài năng duy nhất của cậu. Khi cha mất, cậu bé được một trong những ông chú đem về nhà nuôi và giao cho việc chăn trâu. Bởi tài năng chỉ huy bẩm sinh của mình, cậu đã buộc các cậu bé chăn trâu khác phải thừa nhận mình.

Từ đó, biên niên sử đã ghi:

Thế rồi, bọn trẻ chăn trâu cùng người chỉ huy lao đến tấn công vào lũ trẻ các làng bên cạnh, lấy cây lau làm cờ và lấy tre làm giáo mác.

Và rồi với những cánh tay xếp lại, chúng nâng lên cao vị chỉ huy chiến thắng của mình.

Từ một trong những cuộc dàn trận ấy, Đinh Bộ Lĩnh quá phấn hứng đến mức trở nên “mang tim khỉ và bộ óc ngựa” có nghĩa là quá đắm đuối vào những say mê không kìm chế được, cậu liền cho mổ thịt một con trâu lớn của ông chú để chiêu đãi một buổi tiệc lớn cho đạo quân của mình.

Từ cửa miệng của một dân làng, ông chú biết việc đó và giận sôi gan tím ruột. Chụp một cây gậy tre làm vũ khí, ông đuổi theo thằng cháu để trị nó tan xương nát thịt mới thôi. Mồ cha mả mẹ thằng mất dạy!

Khi sắp bị đuổi kịp, từ bờ sông, cậu nhảy ào xuống nước. Từ mé sông này, ông chú điên tiết huơ gậy lên cao tưởng rằng có thể chộp ngay được cậu bé thì một con rồng xuất hiện đỡ lấy đưa chú qua những đợt sóng dữ. Đối với mọt đứa trẻ tinh nghịch cóc cần mọi thứ này, đây có phải là tín hiệu của một sự bảo trợ suốt đời của những thuỷ thần không?

Trước sự diệu kỳ như vậy, ông chú quỳ mọp xuống ném chiếc gậy ra xa.

Cho đến lúc Đinh Bộ Lĩnh lớn đến tuổi thành niên, vóc dáng cậu bừng nở, cái nhìn như nảy lửa, cách đi đứng giống như loài cọp và cậu cũng vô cùng thoải mái như cha cậu.

Những ai đến gần cậu đều được ảnh hưởng tốt.

Lúc đó có một thầy chuyên về phong thuỷ từ biên giới Trung Hoa đến Hoa Lư để theo dõi mạch rồng.

Với chiếc la bàn trong tay, cuối cùng ông thầy phong thuỷ này tìm được điều mà ông ta đã đi tìm từ một nơi quá xa. Đó là trong một vực sâu quanh vùng Hoa Lư có cái đầu của con Rồng xanh tốt lành, một tín hiệu phúc đức khó mà có được trong cõi ba sinh này, một điềm phong thuỷ cao sang có khả năng đem lại tước vị vua chúa cho con cháu của người được chôn cất ở đây. Sướng rân lên, ông sắp bị ngột thở và trong giấc mơ thấy mình đang ngao du trên chín tầng mây.

Có ai mà không biết rằng bất kể người nào muốn được lên ngai vàng trị vì muôn dân thì cần phải lấy một gói xương tiên tổ mình và đem đặt vào miệng Rồng sao?

Việc khó nhất là làm sao đem chôn được những bộ xương cốt ấy trong cái vực sâu cuốn bọt này?

Khi tìm được địa điểm đó rồi, thầy phong thuỷ còn cần phải có một người to gan lớn mật được kích thích một phần thưởng to lớn nhảy vào đám nước xoáy vực sâu và trở lại báo ông ta biết có những gì trong đó.

Trước khi sinh ra đã biết bơi lội, Đinh Bộ Lĩnh liền đến trình diện.

Từ bên ngoài vực thẳm, tiếng nước ầm ào dữ dội đã có chút gì đó làm con người dũng cảm nhất giữa đám người dũng cảm ngại ngần. Người ta nói rằng đây là một cái nồi tròn vô cùng to lớn và choáng ngợp với độ sâu bất tận trong đó có hàng triệu triệu thuỷ quái đang bừng sôi hoạt động.

Như một viên đạn đá sẵn sàng bật ra khỏi bức thành, trong một lúc, Đinh Bộ Lĩnh đứng lên lấy thăng bằng trên bờ vực, dưới đáy sâu những dòng nước xoáy rợn óc chực sẵn để giết chết và nghiền nát xương cốt cậu.

Đinh Bộ Lĩnh thở rất lâu và nhảy phốc xuống.

Thân thể nhẹ nhàng của con rái cá trong cậu bị cuốn đi bởi một dòng xoáy chóng mặt càng dấn sâu vào chính giữa vực nước. Cậu đột ngột mở mắt: giữa một hang động màu xanh lục có một con ngựa đá với kích thước cân đối tuyệt vời. Cậu ta liền bơi một vòng xung quanh.

Lúc sau, cậu trồi lên mặt nước, dựa vào các mỏm đá gồ ghề để ra khỏi vực sâu đến báo cáo việc làm cho thầy phong thuỷ Trung Hoa. Ông này nhanh chóng vặt lấy một nắm cỏ đưa ra trước mặt cậu.

- Chú em dễ thương ơi! Chú thật là một nhà bơi lội tài ba! Ta sẽ nhân đôi tiền thưởng cho chú nếu chú nhảy xuống được lần nữa và đưa cho con ngựa đó túm cỏ này rồi báo lại cho ta điều gì đã xảy ra.

- Được! Đinh Bộ Lĩnh nói rồi nhảy ào một lần nữa xuống vực.

Sau một đoạn thời gian ngắn mà nhà phong thuỷ cảm thấy dài đến ba thu, cậu bé lại ngoi lên.

- Sao? Ông thầy Trung Hoa lúng búng nói, đầy vẻ sốt ruột.

- Chẳng sao cả, thưa thầy, hãy tin tôi, con ngựa đã mở miệng và nhai túm cỏ của ông.

- Thật là tuyệt! Thầy phong thuỷ sung sướng nói mà không để lộ ra chút kinh ngạc nào. Đây, phần thưởng nhân đôi cho chú mày như đã hứa nhưng dứt khoát, chú phải ngậm chặt miệng về những việc vừa rồi đó nghe.

Sau đó, thầy phong thuỷ hối hả trở về Trung Hoa thu lượm xương cốt của cha mình.

Chỉ biết rằng ông ta đã trả công phục vụ cho một con người dũng cảm mà không phải là một đứa ngu đần.

Mặc cho những cố gắng của người Trung Hoa này tự tạo lấy bộ mặt thích hợp, chẳng lâu lắc gì để đoán được chín phần mười sự thật điều bí hiểm này. Hiểu rõ được nhà phong thuỷ này đã tìm ra được vị trí của một ngôi mộ tuyệt vời khả dĩ đem lại cho gia đình mọi thứ cao sang, cậu ta liền nhanh chóng trở về nhà mình và yêu cầu mẹ đưa cho xương cốt của cha mình.

- Con làm gì được với các thứ đó?

Khi bà vợ goá của ông Đinh Công Trứ hay biết sự việc xảy ra giữa con bà với thầy phong thuỷ Trung Hoa, không chút khó khăn nào, bà đưa xương cốt của con rái cá thu giấu trong nhà bếp trước khi chú bé sinh ra.

Và Đinh Bộ Lĩnh bọc các xương cốt vào trong một túm cỏ và lao xuống vực thẳm để cho con ngựa đó nhai lấy.

Người ta có lý để nói rằng:

Những con Rồng mang lại cho con người sức mạnh và hạnh phúc.

Từ đó sức trai tráng và lòng quả cảm của cậu ta không còn biết đâu là biên giới. Giống như chiếc chiếu đang trải ra, sự nổi tiếng của Đinh Bộ Lĩnh lan rộng cả bốn phương trời.

Trong thời kỳ đó triều đình nhà Ngô đang ngập sâu trong tình trạng vô chính phủ, đánh rơi mất tất cả quyền lực của mình trước sức mạnh của mười hai sứ quân rộng lớn đang cai trị vùng đồng bằng và trung du. Một trong mười hai sứ quân giỏi trận mạc tên là Trần Lâm, kinh ngạc trước trí thông minh và dáng vóc đặc biệt của Đinh Bộ Lĩnh, liền giao cho chỉ huy các đội quân của mình.

Sau đó một thời gian, chính tại Hoa Lư, người con trai con rái cá đã bất chấp quân đội của nhà Ngô và đánh bại chúng.

Và thế là vào năm Đinh Mão, Đinh Bộ Lĩnh tấn công vào các sứ quân khác và bắt họ hàng phục, xứng đáng với biệt danh Vạn Thắng Vương.

Sử biên niên có ghi:

Khắp nơi nào ông đến, ông đều thu được thắng lợi, từ những làng xã, những thung lũng núi non đến tận các bờ sông, đâu đâu ông ta cũng đã đánh tan các toán nổi dậy. Toàn bộ đất đai được thu hồi, từ các quan châu và phủ đến các viên chức nhỏ và toàn dân, không ai là không biết uy thế của Đinh Bộ Lĩnh.

Từ chuyện đó, còn gì hay hơn để nói nữa?

Những năm tháng qua đi, đó là thời gian để xây dựng ở Hoa Lư những lâu đài, thành quách và hào luỹ, kiến lập ở đó một triều đình và một hệ thống quan chức dân sự và quân sự mạnh mẽ.

Đó cũng là thời gian cho nhà phong thuỷ Trung Hoa trở lại đất Việt mang theo cả một túi xương cốt.

Vừa tới nơi, ông hỏi:

- Ta nghe nói Vương quốc này được đặt tên là Đại Cồ Việt ngày nay đã thịnh vượng và lấy Hoa Lư làm kinh đô, vậy ai là người đang cai trị?

Được trả lời đó là “vị chúa tôn nghiêm đầu tiên của nhà Đinh” thuận theo ý trời. Ông ta biết rằng cậu thanh niên Đinh Bộ Lĩnh đã cuối cùng lấy mạch Rồng phục vụ mục đích cá nhân của mình.

Ông rất lấy làm nhục và quyết định trả thù.

Vậy ai là người có thể khẳng định rằng “chỉ có con người đầy đạo đức mới có thể sử dụng thuyết phong thuỷ một cách có ích?”

Ông này liền âm mưu một sự trả thù dưới ánh trăng, nghĩ ra một kế hoạch chắc chắn thành công và đến xin yết kiến vị Hoàng đế.

Sai khi bái lạy nhà vua, ông nói:

- Nhờ vận may của Bệ hạ rộng lớn như trời cao và đức độ của các tiên tổ tôn nghiêm của mình, từ nay nhân dân ngài sống trong hoà bình và hoan lạc. Tuy vậy, xin cho phép người đầy tớ nhỏ này dám nêu ra một lời đề nghị khiêm tốn. Cần có một thanh gươm nữa cho con ngựa của ngài để niềm vinh quang của Bệ hạ được viên mãn!

Đức vua trả lời chẳng chút nghi ngờ:

- Với chúng ta, đó là một lời khuyên chí lý.

Và Đức vua cho móc chiếc kiếm lên cổ con ngựa đá.

Trong khi chiếc gươm vẫn được khéo léo nằm trên cổ con ngựa chiến trong đáy vực sâu, Đinh Bộ Lĩnh vẫn tiếp tục trị vì đất nước vinh quang của mình nhưng dưới tác động của những dòng nước xoáy, chiếc gươm cũ dần dà đưa qua đưa lại và cuối cùng cắt đứt đầu con ngựa như thầy phong thuỷ Trung Hoa đã dự kiến.

Các sử biên niên lại chép: một tên Đỗ Thích nào đó, quan võ trong cung Vua, một đêm nằm mộng thấy một ngôi sao từ trên trời rơi xuống miệng mình, tin rằng đó là tín hiệu của một sự thăng hoa đột ngột và liền đâm giết vua Đinh Bộ Lĩnh và con trai là Hoàng tử kế vị Đinh Liễn, kết thúc triều đại nhà Đinh đã thống nhất và bình định đất nước.

LÊ TRỌNG SÂM dịch

(244/06-09)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.

  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.