LÝ HOÀI THU
Trong bộ tứ bình bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, xuân là bức màn thứ nhất, là khúc dạo đầu của nhịp điệu thiên nhiên. Đó vừa là không gian, vừa là thời gian để vòng tuần hoàn của sự sống tồn tại và sinh sôi.
Ảnh: internet
Thơ mới là tiếng nói của một thế hệ thi nhân trẻ tuổi và trẻ lòng. Điều đó cắt nghĩa vì sao các nhà thơ viết nhiều về mùa xuân. Sự đồng điệu giữa những luồng rung động rạo rực, trẻ trung trong tâm hồn với cảnh sắc đất trời “Tết đến xuân sang” căng tràn nhựa sống đã thăng hoa thành tiếng thơ. Thế Lữ viết Hồ xuân và thiếu nữ; Huy Cận - Hồn xuân, Xuân, Xuân ý; Hàn Mặc Tử - Mùa xuân chín, Xuân đầu; Nguyễn Bính - Xuân về, Mùa xuân xanh… Chính sức sống mùa xuân đã làm tươi lại hồn thơ đầy ảo giác và ấn tượng của Hàn Mặc Tử bằng những hình ảnh vừa thực vừa gợi cảm: Trong làn nắng ửng khói mơ tan/ Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng/ Sột soạt gió trêu tà áo biếc/ Bên giàn thiên lý bóng xuân sang… Ngay giữa chốn khá “mịt mờ” của lối thơ “đánh đố” Xuân Thu nhã tập, có lẽ người ta còn nhớ được hai câu thơ của Nguyễn Xuân Sanh: Lẵng xuân - Bờ giữ. Trái xuân sa/ Đáy đĩa - Mùa đi. Nhịp hải hà… và cái sắc xuân, tình xuân đã trả lại sức sống và tiết điệu trẻ trung cho hồn thơ siêu thực Bích Khê: Hỡi lời ca man dại/ Điệu nhạc thở hơi rừng/ Đêm nay xuân đã lại/ Thuần túy và tượng trưng… Đặc biệt là Xuân Diệu, cứ như thể ngẫu nhiên, từ cái tên cho đến cấu trúc tâm hồn đều gợi về sự kỳ diệu của mùa xuân. Dễ nhận thấy xuân trong thơ Xuân Diệu là một hình tượng nghệ thuật vừa tả thực, vừa biểu trưng. Ở cấp độ thứ nhất, trong hai tập thơ, có nhiều bài mô tả trực tiếp phong cảnh mùa xuân như Nụ cười xuân, Xuân đầu, Xuân rụng… Ở những bài thơ này, Xuân Diệu đã tạo được những bức tranh xuân tươi tắn màu sắc, rộn rã âm thanh, hài hòa, tình tứ như một nụ cười duyên:
Giữa vườn ánh ỏi tiếng chim vui
Thiếu nữ nhìn sương chói mặt trời
Sao buổi đầu xuân êm ái thế
Cánh hồng kết những nụ cười tươi
Ánh sáng ôm trùm những ngọn cao
Cây vàng rung nắng, lá xôn xao;
Gió thơm phơ phất bay vô ý
Đem đụng cành mai sát nhánh đào
(Nụ cười xuân)
Nhưng những bức tranh thơ kiểu này chiếm tỉ lệ rất ít ỏi trong thơ Xuân Diệu bởi nó không tiêu biểu cho lối viết của ông. Xuân Diệu, như ta đã biết, gần với bút pháp tượng trưng hơn lãng mạn nên cảnh vật trong thơ ông “cốt gợi” mà không “cốt tả”. Ngay cả khi ông vận dụng lối miêu tả thì phần biểu hiện vẫn lấn lướt và người đọc khó lòng định vị được ranh giới giữa thực và ảo, giữa không gian ngoại giới và không gian tâm tưởng:
Trời xanh thế! hàng cây thơ biết mấy!
Vườn non sao! đường cỏ mộng bao nhiêu…
Tà áo mới cũng say mùi gió nước;
Rặng mi dài xao động ánh dương vui
(Xuân đầu)
Tơ liễu giong gần tơ liễu êm;
Bướm bay lại sánh bướm bay kèm…
Son sẻ trời như mười sáu tuổi;
Má hồng phơn phớt mắt long lanh
(Rạo rực)
Có thể coi những câu thơ trên là sự kết nối giữa “sắc xuân” với “tình xu- ân”, giúp Xuân Diệu đi xa, đi sâu hơn vào thế giới của “xuân lòng”, của “vạn vật nức xuân tâm”. Nhiều hơn cả trong thơ Xuân Diệu là những bài thơ có sự “khúc xạ” về ý tưởng, và xuân dường như đồng nghĩa với những tình cảm tươi trẻ của lòng người:
Xuân của đất trời nay mới đến;
Trong tôi, xuân đến đã lâu rồi;
Từ lúc yêu nhau, hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi
(Nguyên đán)
Mùa xuân thường song hành với sự bừng nở của cây lá, nhưng người thơ có lúc thay vì ngất ngây trước vẻ đẹp của mây gió cỏ hoa lại tự say mê vẻ “xinh tươi kỳ diệu” của chính tâm hồn mình. Sự “di chuyển điểm nhìn” này đã “mờ hóa” những tín hiệu báo mùa của thiên nhiên, khiến chúng trở nên không cần thiết:
Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm.
Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu yêu.
Thế là xuân. Tôi không hỏi chi nhiều
Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng…
Bình minh quá, mỗi khi tình lại hứa,
Xuân ơi xuân vĩnh viễn giữa lòng ta…
Kể chi mùa, thời tiết, với niên hoa,
Tình không tuổi, và xuân không ngày tháng
(Xuân không mùa)
Rất nhiều bài thơ không nằm trong phạm vi đề tài và không trực tiếp viết cảnh sắc ngày xuân nhưng vẫn thấp thoáng vẻ đẹp và sức sống mùa xuân. Trường liên tưởng xung quanh ký hiệu xuân được mở ra nhiều chiều nhưng ấn tượng hơn cả là sự đồng điệu giữa mùa xuân với những rung động mới mẻ của tình yêu đầu đời:
Hoa thứ nhất có một mùi trinh bạch,
Xuân đầu mùa trong sạch vẻ ban sơ.
Hương mới thắm bền ghi như thiết thạch;
Sương nguyên tiêu trời đất cũng chung mờ.
(Tình thứ nhất)
Thơ Xuân Diệu vốn đã nồng, viết về xuân, giọng điệu thơ càng trở nên tha thiết, đắm say với những: “nhan sắc ơi”, “bình minh quá”, “xuân ơi xuân”,… Khát vọng tình yêu và nguồn cảm xúc trẻ trung, sôi nổi đã chi phối đến cách thức tạo dựng hình ảnh thơ. Qua lăng kính lứa đôi, chủ thể trữ tình là nam - người phát ngôn - trong thơ Xuân Diệu luôn cảm nhận sắc hương mùa xuân từ góc độ của bản tính nữ. Chỉ có Xuân Diệu, bằng đôi mắt “xanh non”, đa tình mới có thể nhìn thấy nét gợi tình lạ lùng từ một phạm trù vô hình vô ảnh là thời gian:
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
(Vội vàng)
Cách viết đó của Xuân Diệu, dù ít dù nhiều đã chứa đựng sắc thái nhục cảm. Vì vậy, khác với một số nhà thơ thường lấy màu xanh như một “mã” ước lệ để ví mùa xuân - xa xưa là đại thi hào Nguyễn Du: Cỏ non xanh rợn chân trời; cùng thời là Nguyễn Bính: Mùa xuân là cả một màu xanh, Hàn Mặc Tử: Sóng cỏ xanh tươi gợi tới trời… Xuân trong thơ Xuân Diệu lại được ký hiệu bởi màu hồng - một tông màu ấm và có sức gợi cảm giác nhục thể hơn.
Trời reo nắng thì chim reo tiếng sáng!
Xuân có hồng thì tôi có tình tôi
(Tặng thơ)
Là nhà thơ mang nỗi đau và luyến tiếc đến từng giọt thời gian. Xuân trong thơ Xuân Diệu, vì vậy, là tình yêu tuổi trẻ, là “phần ngon nhất” của cuộc đời và đầy sức quyến rũ nhưng lại vô cùng ngắn ngủi. Cảm thức về sự hữu hạn của đời người, sự sớm tàn mau tạ của tuổi thanh xuân khiến tư thế trữ tình của nhà thơ chưa bao giờ bình thản. “Vội vàng”, “giục giã”, “mau đi thôi”, “gấp đi em”… là những lựa chọn tiêu biểu cho hành động sống của nhà thơ. Xuất phát từ nguồn cảm xúc mãnh liệt, dâng trào này, Xuân Diệu đã viết nên nhiều câu thơ mang đậm tính triết lý. Xuân của đất trời vận động theo nhịp điệu tuần hoàn của vũ trụ, của thời gian tự nhiên, xuân của đời người là một đi không trở lại:
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian;
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại,
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời
(Vội vàng)
Trong niềm say mê bồng bột và khát khao chiếm lĩnh hoa thơm mật ngọt của đời sống trần thế, nhà thơ như đã ôm trọn được cả thực thể xuân vào lòng. Sự độc đáo của thế giới thơ Xuân Diệu thường được mở ra bằng những khả năng liên tưởng dồi dào, mới mẻ. Chung qui là nhằm diễn tả đến tận cùng tình yêu cuộc sống và khát vọng ái ân:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn.
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếch choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
(Vội vàng)
Cả mặt đất và bầu trời bát ngát trong Thơ thơ và Gửi hương cho gió dường như thuộc về tuổi trẻ và chỉ dành cho những người đang yêu. Một không gian trẻ trung với những cô gái mười tám đôi mươi “má hồng phơn phớt mắt long lanh”, những chàng trai “đương sức lực tươi xanh”, với những lời “mời yêu” tha thiết và tình tứ: Mở miệng vàng và hãy nói yêu tôi; Hãy làm dáng điệu xuân ôm ấp/ Ánh sáng ban từ một nét tay… Có thể nói, Xuân Diệu đã chăm chút tỉ mỉ đến từng chi tiết, đã tự tay sắp đặt khu vườn trần thế để nó thực sự là “bình chứa muôn hương của tuổi trẻ”, để khi bước chân vào đó, người người đều có cảm tưởng như được “du ngoạn trong xứ yêu mến” và thầm ao ước được mãi mãi “hoài xuân”…
Với Xuân Diệu, cảm thức mùa, cũng chính là sự kết tụ cảm hứng yêu đời và tư tưởng nhân sinh của nhà thơ. Cái được biểu đạt, rõ ràng, đã muôn lần phong phú hơn so với cái biểu đạt. Xuân, hạ, thu, đông không chỉ là những bức tranh thiên nhiên mà là chân dung tâm hồn, là tài năng và cá tính của một nhà thơ được đánh giá là tiêu biểu nhất của Phong trào thơ mới. Sau Thế Lữ, với Thơ thơ và Gửi hương cho gió, Xuân Diệu đã là người kế thừa xuất sắc, tái tạo nguồn sinh lực và đưa trào lưu thơ ca lãng mạn Việt Nam 1932 - 1945 đến thời hoàng kim rực rỡ.
L.H.T
(TCSH372/02-2020)
HOÀNG NHƯ MAI - NGUYỄN VĂN HẤN Cùng với những tập quán cổ truyền ngày Tết dân tộc, từ cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nhân dân ta đã có thêm một tập quán quý báu nữa: đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ.
NGÔ MINHTôi đọc và để ý đến thơ Đông Hà khi chị còn là sinh viên khoa văn Trường Đại học Sư phạm Huế. Thế hệ này có rất nhiều nữ sinh làm thơ gây được sự chú ý của bạn đọc ở Huế và miền Trung như Lê Thị Mỹ Ý, Nguyễn Thanh Thảo, Huỳnh Diễm Diễm.v.v... Trong đó có ấn tượng đối với tôi hơn cả là thơ Đông Hà.
NGUYỄN ANH TUẤNKhông gian trữ tình không là một địa danh cụ thể. Mặc dù có một “thôn Vĩ” luôn hiện hữu hết sức thơ mộng trên toàn đồ trực diện thẩm mỹ của bài thơ, với những màu sắc, hình ảnh, đường nét:…
KHÁNH PHƯƠNGNhân cách văn hóa của nhà văn có thể được biểu hiện bằng những hành động, thái độ trong đời sống, nhưng quan trọng hơn, nó chi phối nhân cách sáng tạo của nhà văn.
HỒNG DIỆUTrương Mỹ Dung đời Đường (Trung Quốc) có một bài thơ tình yêu không đề, được nhiều nhà thơ Việt Nam chú ý.
NGUYỄN KHOA BỘI LANMột hôm chú Văn tôi (Hải Triều Nguyễn Khoa Văn) đọc cho cả nhà nghe một bài thơ mà không nói của ai.
NGUYỄN QUANG HÀTôi nhớ sau thời gian luyện tập miệt mài, chuẩn bị lên đường chi viện cho miền Nam, trong lúc đang nơm nớp đoán già đoán non, không biết mình sẽ vào Tây Nguyên hay đi Nam Bộ thì đại đội trưởng đi họp về báo tin vui rằng chúng tôi được tăng viện cho chiến trường Bác Đô.
LÊ HUỲNH LÂM(Đọc tập truyện ngắn “Thõng tay vào chợ” của Bạch Lê Quang, NXB Thuận Hóa, 11/2009)
LÊ VŨ(Đọc tập thơ Nháp của Ngọc Tuyết - NXB Thanh niên 2009)
NGÔ MINHÐọc lại Chiếu Dời đô, tôi bỗng giật mình trước sự vĩ đại của một quyết sách. Từng câu từng chữ trong áng văn chương bất hủ này đều thể hiện thái độ vừa quyết đoán dứt khoát với một lý lẽ vững chắc, vừa là một lời kêu gọi sự đồng thuận của triều thần với lời lẽ rất khoan hòa, mềm mỏng.
LÊ HUỲNH LÂMThơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ lời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta.
KHÁNH PHƯƠNGNgay từ thuở cùng Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương viết tuyên ngôn Tượng trưng, Trần Dần đã mặc nhiên khảng khái công bố quan niệm, thơ bỏ qua những biểu hiện đơn nghĩa của sự vật, sự kiện, đời sống, mà muốn dung hợp tất cả biểu hiện hiện thực trong cõi tương hợp của cảm giác, biến nó thành không gian rộng lớn tiếp biến kỳ ảo của những biểu tượng tiềm thức. Như vậy cũng có nghĩa, nhà thơ không được quyền sao chép ngay cả những cảm xúc dễ dãi của bản thân.
NGUYỄN CƯƠNGSư Bà Thích Nữ Diệu Không (tục danh Hồ Thị Hạnh) sinh năm 1905 viên tịch năm 1997 hưởng thọ 93 tuổi. Lúc sinh thời Sư Bà trụ trì tại Chùa Hồng Ân, một ngôi chùa nữ tu nổi tiếng ở TP Huế, đã một thời là trung tâm Phật giáo ở miền Nam.
HỒNG NHU (Đọc tập “Chuyện Huế” của Hồ Đăng Thanh Ngọc - NXB Thuận Hóa 2008)
NGUYỄN ĐÔNG NHẬTĐọc xong tập sách do họa sĩ Phan Ngọc Minh đưa mượn vào đầu tháng 6.2009(*), chợt nghĩ: Hẳn, đã và sẽ còn có nhiều bài viết về tác phẩm này.
NGUYỄN HỮU QUÝ (Mấy cảm nhận khi đọc Chết như thế nào của Nguyên Tường - NXB Thuận Hóa, 2009) Tôi mượn thuật ngữ chuyên ngành y học (Chăm sóc làm dịu=Palliative Care) để đặt tít cho bài viết của mình bởi Phạm Nguyên Tường là một bác sĩ điều trị bệnh ung thư. Tuy rằng, nhiều người biết đến cái tên Phạm Nguyên Tường với tư cách là nhà thơ trẻ, Chủ tịch Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế hơn là một Phạm Nguyên Tường đang bảo vệ luận án tiến sĩ y khoa.
LÊ THỊ HƯỜNGTìm trong trang viết là tập tiểu luận - phê bình thứ 3 của Hồ Thế Hà. Sau những ngày tháng miệt mài “Thức cùng trang văn” (viết chung với Lê Xuân Việt, được giải thưởng Cố đô 1993 - 1997), Hồ Thế Hà lại cần mẫn “tìm trong trang viết” như một trăn trở đầy trách nhiệm với nghề.
MAI VĂN HOANNguyễn Công Trứ từng làm tham tụng bộ lại, Thị lang bộ Hình, Thượng thư bộ Binh... Đương thời ông đã nổi tiếng là một vị tướng tài ba, một nhà Doanh điền kiệt xuất. Thế nhưng khi nói về mình ông chỉ tự hào có hai điều: Thứ nhất không ai "ngất ngưỡng" bằng ông; thứ hai không ai "đa tình" như ông. Nguyễn Công Trứ "ngất ngưỡng" đến mức "bụt cũng phải nực cười" vì đi vào chùa vẫn mang theo các cô đào.
SICOLE MOZETBà Nicole Mozet, giáo sư trường Paris VII, chuyên gia về Balzac và là người điều hành chính của các hội thảo về Balzac đã làm một loạt bài nói chuyện ở trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội, trường Đại học sư phạm Hà Nội, Nhà xuất bản thế giới... Chúng tôi trích dịch một đoạn ngắn trong bản thảo một bài nói chuyện rất hay của bà. Lúc nói bà đã phát triển những ý sau đây dưới đầu đề: Thời gian và tiền bạc trong Eugénie Grandet, và đã gợi cho người nghe nhiều suy nghĩ về tác phẩm của Batzac, cả về một số tác phẩm của thế kỉ XX.
CAO HUY HÙNGLịch sử vốn có những ngẫu nhiên và những điều thần tình mà nhiều người trong chúng ta chưa hiểu rõ. Tỉ như: Thế giới có 2 bản Tuyên ngôn độc lập, đều có câu mở đầu giống nhau. Ngày tuyên bố tuyên ngôn trở thành ngày quốc khánh. Hai người soạn thảo Tuyên ngôn đều trở thành lãnh tụ của hai quốc gia và cả hai đều qua đời đúng vào ngày quốc khánh...