Xót thương cùng Huế qua một bài thơ

08:48 01/11/2009
NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

Hình ảnh về trận lụt tháng 11 - 1999 ở Huế

 "Kính tặng bà con Tây Linh" - phải đây là cái xóm mà Hoàng Đình Thạnh đã chèo xuồng bươn bả trong nước xoáy một ngày để cứu bà con lối xóm, và cuối ngày anh đã hy sinh cùng bà mẹ già và đưa con thơ dại?

                        "Mỗi năm đến tháng lụt
                        cả xóm tôi đều lo
                        chạy heo gà gạo củi
                        lụt lần nào cũng to

                        Ôi! cái xóm tội tình
                        mưa chỉ vài ba trộ
                        đất đá đã nổi sình
                        người đua nhau chổng vó

                        Trăm người làm trăm nghề
                        đến ngày lụt, tháng lụt
                        đều làm lính Thủy Tề
                        lội ì à ì ộp

                        Chó cuống cuồng chạy chỗ
                        gà táo tác tìm cây
                        chuột hết đường nhí nhố
                        ruồi ướt cánh ngừng bay

                        Có điều vui vẻ nhất
                        thường ngày gặp, ít chào
                        đến ngày lụt, tháng lụt
                        í ới gọi tìm nhau

                        Chỉ buồn không hiểu sao
                        dù năm nào cũng lụt
                        phù sa không bám đất
                        nên xóm tôi không giàu!"


Một bài thơ ngũ ngôn tự sự, viết như nói, nói như kể, kể như nửa khóc nửa mếu nửa cười. Đây là bài thơ viết trước khi có trận lũ lụt kinh hoàng vừa xảy ra tại Huế, nên chưa thấy cái không khí kinh hoàng trong từng câu chữ, nhưng nó cũng đủ nhói vào ta những cảnh tả thực về lụt ở một xóm trũng, xóm nghèo. Ở đời "nước chảy chỗ trũng", nhưng đây là nước lũ, nước lụt, chứ đâu phải tiền của gì cho cam! "Cái xóm tội tình" ấy, "mưa chỉ vài ba trộ" đã ngập lê mê, nói chi tới lũ quét, lụt tràn? "Chó cuống cuồng chạy chỗ- Gà táo tác tìm cây- Chuột hết đường nhí nhố...", chao ôi là cảnh chạy lụt, tả như thế sinh động đến muốn khóc, dù có câu thơ lại như cái nhếch mép cười cay đắng. Người Huế là vậy, bao nhiêu nỗi đau, bao nhiêu cay đắng lặn vào trong, nuốt vào trong, để cố nở một nụ cười. Cái nụ cười khiến ta chết lặng.

                        "Có điều vui vẻ nhất
                         thường ngày gặp, ít chào
                        đến ngày lụt, tháng lụt
                        í ới gọi tìm nhau"


Đấy là cái tình làng nghĩa xóm, cái tình của người đồng bào không chỉ một xóm một làng. Đó là điều lạ lùng đến kỳ diệu của người Việt mình, mỗi khi một vùng nào trong nước gặp tai ương, cả nước chợt bừng tỉnh, siết chặt vòng tay quanh vùng hoạn nạn, chia sẻ đến từng miếng ăn miếng uống, chia sẻ cả tính mạng vì đồng bào, đồng loại. Riêng điều đó đủ cho ta tự hào mình là người Việt. Những "í ới gọi tìm nhau" ấy đang diễn  ra trong cả nước giờ đây, trước tai ương và nỗi đau khôn cùng của Thừa Thiên Huế, của Quảng Nam, Quảng Trị, Quảng Ngãi... Miền Trung của tôi, giống như cái xóm nhỏ của anh Phạm Xuân Phụng, "chỉ buồn không hiểu sao, dù năm nào cũng lụt" mà "phù sa không bám đất", nên lá đã rách càng rách thêm. Dù có những "lá lành bất ngờ" cứ ăn vào lá rách, thì ở dải đất nghiệt ngã này, "lá rách" vẫn là đa số, vẫn 90%, vẫn "nhất trí"... nghèo khổ. Bao giờ cho tới... bao giờ, cho cây lúa trỗ ngập bờ nắng lên... Thơ không chỉ có tiếng cười, thơ còn là tiếng khóc, là nỗi đau. Dù ít, nhưng trong thơ Việt Nam chưa bao giờ ngưng "dòng thơ chạy lụt", kể từ những câu thơ nổi tiếng thương dân, thương người của Nguyễn Khuyến:

            "Quay Mễ Thanh Liêm đã vỡ rồi
            Làng ta thôi lại lụt mà thôi..."

Quảng Ngãi 11-11-1999
N.C
(130/12-1999)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN(Trao đổi về tiểu luận Văn học như là tư duy về cái khả nhiên của Trần Đình Sử, Văn Nghệ số 24 ngày16/6/2007)

  • VĂN TÂMXứ Huế – Thừa Thiên có một vị lão thành cách mạng được nhiều người biết tên tuổi. Đó là cụ Nguyễn Vạn, tức Lê Bốn; tên khai sinh là Phùng Lưu – "thầy Lưu", sinh năm 1916, quê ở làng Thanh Thủy Thượng (nay thuộc xã Thủy Dương), huyện Hương Thủy.

  • NGUYỄN BÙI VỢI"Chống tham ô lãng phí" là một bài thơ về đề tài chính trị xã hội, một vấn đề bức xúc của cuộc sống. Nó được viết ra năm 1956 khi miền Bắc sau chín năm kháng chiến chống Pháp gian khổ đang hàn gắn vết thương chiến tranh, khai hoang, phục hoá, tìm công ăn việc làm...

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNMuốn tiếp cận với văn hoá văn học, trước hết phải xác định cơ bản đúng đắn thế nào là văn hoá và thế nào là văn học.

  • HOÀNG SĨ NGUYÊN Hồi học Đại học, tôi và mấy đứa bạn phải đi bộ năm, sáu cây số vòng quanh các hiệu sách thành phố để tìm mua cho được cuốn "Thơ và mấy vần đề trong thơ Việt nam hiện đại" (Hà Minh Đức, NXB KHXH, 1994).

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong cuốn sách dịch, đúng hơn là trích dịch Những vấn đề thi pháp Đoxtoiepxki của M.M Bakhtin, chúng tôi đã giới thiệu những lời đánh giá quan trọng của các học giả thế kỷ XX đối với Bakhtin: "Bakhtin, nhà lý luận văn học lớn nhất của thế kỷ XX" (TS. Todorov). "Bakhtin, người giữ cho các khoa học nhân văn đối tượng riêng của chúng" (X.X. Avêzinxép), "Bakhtin, người đem lại một quan niệm hoàn toàn mới về ngôn từ tiểu thuyết" (A. Tritrêrin)...

  • PHONG LÊViệc xác định một đề tài nghiên cứu cho bất cứ ai bước vào con đường khoa học, theo tôi là động tác quan trọng đầu tiên, có ý nghĩa quyết định, như là một ô cửa, một đột phá khẩu trổ ra cái bầu trời, hoặc quang đãng hoặc vần vụ mưa gió, rồi anh ta sẽ được bay lượn ở trong đó.

  • ĐỖ LAI THUÝNgàn mây tràng giang buồn muôn đời                                 Nguyễn Xuân Sanh

  • VŨ QUẦN PHƯƠNGTên thật cũng là bút danh, sinh ngày 18-9-1949 tại quê gốc huyện Lệ Thuỷ, Quảng Bình.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một số lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60-70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • HỒ TIỂU NGỌCLTS: Nhân dịp kỷ niệm 53 năm Quốc khánh nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài thơ sau đây của tác giả Đoàn Duy Thành. Bài thơ thể hiện tình hữu nghị cao quý của nhân dân hai nước Việt - Trung.

  • HỒNG NHU            (Tham luận tại Hội nghị Văn học Miền Trung lần thứ II tháng 9-2002) LTS: Hội nghị văn học miền Trung lần thứ hai vừa diễn ra tại thị xã Sầm Sơn, Thanh Hoá trong 2 ngày 19 và 20 tháng 9 năm 2002. Gần 80 nhà văn của 18 tỉnh thành từ Bình Thuận đến Thanh Hoá đã về dự. Ngoài ra còn có đại diện các hội đồng chuyên môn, các ban công tác, các cơ quan báo chí xuất bản của Hội Nhà văn Việt cũng có mặt trong cuộc hội ngộ này.

  • THÁI BÁ LỢIMột nhà văn lớp đàn anh của tôi tâm sự: Chỉ có miền Trung mới có văn xuôi thôi, vì ở đây từ đất đai, khí hậu con người luôn luôn được thử thách, được cọ xát, được tôi rèn, với hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy mới bật ra tư tưởng, mà văn xuôi là tư tưởng.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Không nhà thơ nào muốn lặp lại những gì thơ ca đã có, kể cả lặp lại chính mình. Đi tìm cái lạ cái mới, chính là bản chất của sáng tạo.

  • NGUYỄN QUANG HÀHình như trong máu của người Việt đều có một chút máu thi nhân. Cho nên thấy ai cũng mê thơ cả. Chả thế mà tít mãi vùng hẻo lánh, các bà mẹ ru con bằng Kiều, bằng ca dao. Lời ru giống như một sự ngẫu hứng, cứ thế tự trào ra từ tâm hồn mình.

  • TRẦN THANH ĐẠMNgày13 tháng 06 năm 2002 vừa qua là dịp kỷ niệm lần thứ 75 ngày mất của một trong những nhà yêu nước và cách mạng tiền bối, một nhà giáo dục lớn của nước ta đầu thế kỷ XX: chí sĩ Lương Văn Can (1854-1927).

  • LÊ HỒNG SÂM Cách đây mươi năm, trong một cuộc phỏng vấn thân mật, chị Lộc Phương Thuỷ có hỏi tôi về những kỷ niệm đáng nhớ, liên quan đến văn học, nhất là văn học Pháp. Tôi đã kể cho chị Thuỷ mẩu chuyện nhỏ mà hôm nay tôi xin thuật lại, dưới tiêu đề phù hợp với một trong hai nội dung của hội thảo Fantine, Cosette và chiếc đòn gánh Việt .

  • HỒNG NHULTS: Những cuộc trao đổi mang tính nghề nghiệp về thơ ở tầm "vĩ mô" dường như đang co lại ở tầm "vi mô". Các ý kiến khác nhau, thậm chí ngược nhau trong tranh luận học thuật là chuyện bình thường. Song, sẽ không bình thường khi công cuộc đổi mới của Đảng đã bước vào nền kinh tế tri thức mà vẫn còn những "tư duy thơ" theo cơ chế suy diễn với những mục đích gì đó, ngoài thơ.Nhằm rộng đường dư luận, Sông Hương xin được trao đổi lại một trường hợp cụ thể sau đây.

  • MAI VĂN HOANỞ Huế tôi đã có nghe bạn bè nói sơ qua về cuộc hội thảo tập thơ "Đám mây lơ lửng" của Hoàng Vũ Thuật, tác phẩm đoạt giải A giải thưởng VH-NT Lưu Trọng Lư lần thứ hai (1996 - 2000) do Hội Văn nghệ Quảng Bình tổ chức.

  • ĐÀO DUY HIỆP“Đi tìm thời gian đã mất” của Marcel Proust (1871-1922) là một tiểu thuyết đồ sộ gồm bảy tập với trên dưới ba nghìn trang ngày nay đã được độc giả toàn thế giới say sưa đón đọc và được nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu đánh giá rất cao.