Xin được nói về Hoàng Phủ Ngọc Tường như một thi sĩ của thiên nhiên

15:15 28/08/2008
LÊ THỊ HƯỜNG1. Yêu con người Hoàng Phủ Ngọc Tường trong thơ, quý con người Hoàng Phủ trong văn, tôi đã nhiều lần trăn trở tìm một từ, một khái niệm thật chính xác để đặt tên cho phong cách Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Tài hoa ư? Thì chính nhà văn thi sĩ đã tự ý thức để vận vào mình nỗi cô đơn dài dặc của cả một đời phù du "tôi sẽ tìm em giữa mịt mờ vô tận, dù một ngày còn đập cánh tài hoa". Độc đáo ư? Thì những vần thơ, những trang ký, ngay cả những lúc "nhàn đàm", nghĩa là những lúc mình là mình nhất, không còn phụ thuộc vào những khuôn mẫu nào, những lúc "kiến thị cuộc đời như một trò chơi và tự xem mình cũng là một trong số những người ham chơi" (Người ham chơi) Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã nói lên điều đó. Đa dạng ư? Lẽ nào lại quy vào một từ đơn giản thế, dẫu thế giới nghệ thuật của anh tự nó đã là một minh chứng xác thực cho điều này. Nhân hậu ư? Thì hơn ai hết Hoàng Phủ Ngọc Tường là người đồng cảm với lời hát của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn – một mảnh hồn đồng dạng với anh: "Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì, em biết không? – Để gió cuốn đi". Cái tâm ấy lấp lánh trên từng trang viết của một con người suốt một đời rong ruổi trong những năm tháng chiến tranh, trong những ngày tháng hòa bình. Dường như khó "sắp xếp" một chỗ cho Hoàng Phủ Ngọc Tường, dù chỉ bằng ngôn từ lý luận. Cảm nhận văn thơ anh Tường là cảm nhận tự trái tim, với cả vốn liếng văn hóa có sẵn ở mỗi người.
Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến cho người đọc một cái nhìn toàn diện về nghiệp văn và cả nghiệp đời của một tác giả. Hoàng Phủ Ngọc Tường thuộc loại tác giả mà những trang viết cũng chính là những trang đời chắt lọc. Cũng hiếm có một tác giả nào thể hiện hết mình một cái tôi vừa đa dạng vừa thống nhất trong những thể loại mà mình sáng tác như Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nếu đọc ký Hoàng Phủ Ngọc Tường, chúng ta đối diện với một cái tôi trầm tư về lẽ đời, lẽ người thì dường như trong thơ anh có một con người khác – một cái tôi trầm lặng trong nỗi buồn đơn độc. Và nếu trong thơ, cái tôi luôn tự mình đối diện với bóng mình, một cái tôi ngồi tỉ mẩn lượm nhặt, ghép lắp những – mảnh – mình – rơi – vãi (dáng ai như tôi đi qua cánh đồng, thu nhặt lại mình trên ngọn gió, giống như con chim sẻ nọ, thu về từng cọng vàng khô) thì đọc ký và "nhàn đàm" của anh, người đọc lúc nào cũng tưởng tượng rằng, có một người nghệ sĩ, một kẻ lãng du, rong ruổi hoài giữa khói và mây, "giữa không gian mù sương giăng đầy tơ trời của mùa thu"; giữa tiếng ve ran giấu trong những hàng phượng đỏ mùa hè; hay trong cái tím ngát của buổi chiều, hoặc giữa đêm khuya, khi "những cây ngọc lan nhả vào không trung một mùi hương sâu thẳm và bí ẩn". Dẫu viết về đời hay viết cho mình, dẫu có lúc lặng buồn có lúc bông đùa, riết róng hoặc có khi lên giọng sử thi, lúc nào Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng thể hiện mình như một "thi sĩ của thiên nhiên".
Lần dở từng trang viết của anh, theo sau những bước lãng du, những phút "nhàn đàm", hay đồng điệu với những vần thơ mang tính chất tự bạch của Hoàng Phủ Ngọc Tường, nét đọng lại ở người đọc vẫn là hình ảnh một con người hòa nhập với thiên nhiên. Ngay ở nhan đề những tập sách của anh cũng đã thể hiện được ấn tượng này. Từ Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu, Ai đã đặt tên cho dòng sông, Bản di chúc cỏ lau, đến Hoa trái quanh tôi, Thành phố và chim, Ngọn núi ảo ảnh, Người hái phù dung v.v... những tín hiệu thẩm mỹ ấy đã ngầm bộc lộ con người và nét đặc sắc của văn thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường. Phải chăng một con người biết say đắm một chòm mây, một dáng núi, một bóng trăng là con người biết sống và sống đẹp. Là thi sĩ của thiên nhiên, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhạy cảm với cỏ, hoa, ngàn thông, chim sẻ. Trong thơ anh xuất hiện nhiều hình ảnh hoa dại, cỏ gai, chim trời... như là biểu tượng của thiên nhiên trong trẻo, thuần khiết. Là thi sĩ của thiên nhiên, những trang ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường mang đến cho người đọc những miền không gian xanh thẳm, ẩn chìm những vết trầm tích văn hóa từ thiên nhiên.
2. Hoàng Phủ Ngọc Tường viết nhiều thể loại nhưng ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến những trang ký viết về thiên nhiên Huế của nhà văn. Với thể ký anh đã khẳng định rõ phong cách riêng và góp phần "bản sắc hoá" văn học một vùng đất. Chính những trang ký này đã thực sự làm nên một Hoàng Phủ Ngọc Tường của Huế, để tác phẩm của anh không biết tự lúc nào đã trở thành một phần máu thịt của văn hóa và văn học Huế. Đọc những trang ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường cảm nhận về thể ký có sự đổi thay thú vị. Thể loại chuyên ghi chép các sự kiện sôi bỏng, có thực này qua ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường lại thấm đẫm chất trầm tư, trữ tình. Rất nhiều ánh lửa, Ai đã đặt tên cho dòng sông, Hoa trái quanh tôi... chính là sản phẩm của một phong cách ký độc đáo đến duy nhất, với những trang viết vừa trí tuệ, vừa nặng trĩu trầm tư. Ký Hoàng Phủ Ngọc Tường giàu lượng thông tin. Tác giả tỏ ra am hiểu đến lọc lõi những gì mình viết.
Những trang kí viết về Huế là những trang thơ văn xuôi, góp phần khẳng định sự thành công của anh về thể ký, đồng thời bộc lộ rõ một phong cách riêng. Đó là "chất Huế" bàng bạc khắp những trang viết của anh. Hoàng Phủ Ngọc Tường là cây bút ký gắn bó với cội nguồn, truyền thống văn hóa Huế. Trong bảng màu đa dạng của loại ký thiên về văn hóa, ký Hoàng Phủ Ngọc Tường tập trung về thiên nhiên và văn hóa vườn.
Vườn là một không gian văn hóa đặc trưng của Huế. Hệ thống vườn nhà, vườn lăng, vườn chùa, vườn trường làm tôn tạo sắc xanh và trữ tình cho Huế. Nhạy bén với ưu đãi của thiên nhiên dành cho vùng đất kinh kỳ cũ, bằng những trang ký trữ tình, với văn phong mềm mại, hấp dẫn, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc họa đậm nét yếu tố văn hóa đặc trưng này. Trong Hoa trái quanh tôi, nhà văn viết: "Có lẽ thiên nhiên đã giữ một vai trò nào đó, thực quan trọng, trong sự tổng hợp nên cái mà người ta có thể gọi là "bản sắc Huế". Từ cái nhìn đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường say sưa viết về những khu vườn Huế. Không có sự am tường về văn hóa vườn, khó có thể viết được những trang thú vị về vườn Huế như thế.
Những bức tranh thiên nhiên trong bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường mang một nét Huế riêng, nhà văn rất có ý thức làm rõ nét đặc thù của không gian xanh sâu của Huế. Viết về Thành phố và chim, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã từng kêu lên như thảng thốt ngạc nhiên "Chưa cần đến âm nhạc, Huế từ trong tâm hồn nó đã mang sẵn một mêlôđy của riêng mình. Là thành phố vườn, Huế tràn đầy âm do thiên nhiên ban cho: dàn đồng ca của ve sầu mùa hè, tiếng hát trong và cao vút của ve kim như tiếng đàn viôlông mùa thu, lời nỉ non của côn trùng trong những khu vườn mùa đông, và cả bốn mùa, ôi Huế bốn mùa đầy tiếng chim". Trong mẩu bút ký Khói và mây, Hoàng Phủ Ngọc Tường kỳ công tả một tiếng ve, một thứ âm thanh có lẽ trở thành của Huế mỗi lúc mùa hạ trở về: "Khu vườn Nhà Chung trước mặt nhà tôi đầy tiếng ve. Ve sầu kêu rất đúng giờ, cứ cách nhau vài tiếng thì lại dấy lên cùng một lúc như một dàn nhạc giao hưởng, khiến cho mùa hè ở Huế có một âm thanh riêng. Đến già nửa mùa hè thì ve sầu im tiếng nhường chỗ cho tiếng ve kim. Ve kim kêu li ri như tiếng vĩ cầm, báo hiệu mùa thu sắp đến". Nhà văn khẳng định: "Thật hiếm có thành phố nào mà tiếng ve lại xen lẫn với tiếng xe cộ như ở Huế. Rõ ràng Huế là một thành phố vườn. Tôi có cái thú lên chơi ở những khu vườn ngoại ô vào dịp đầu thu. Ở đó trong ngọn gió heo may lành lạnh, tôi còn bắt gặp trên những thân cây trong vườn những chiếc vỏ khô của con ve sầu. Mùa hè đã đi qua song trời đất còn để lại một chút dấu tích trên những xác ve sầu".
Huế là một thành phố xanh, người Huế sống gần gũi, gắn liền với thiên nhiên nên môi trường xanh ấy có tầm quan trọng đặc biệt trong việc tìm hiểu tính cách con người của vùng đất kinh kỳ cũ. Văn hóa vườn tiềm ẩn trong cách sống, cách ăn uống và cả cách ứng xử của người Huế. Nét văn hóa ứng xử đó đã được Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện tinh tế qua một thể loại ngỡ chỉ là ghi chép sự kiện. Nét văn hóa Huế in sâu trong những dòng chữ, câu văn khi anh tìm thấy sự tương giao giữa người Huế và thiên nhiên. Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường: "Tưởng không cần nhiều hơn để nhận ra rằng có bao nhiêu điều trong đời sống nội tâm của người Huế đã hình thành qua tình bạn lâu dài với chim đến nỗi người ta đã mang theo tiếng chim vào âm nhạc để cố gắng đạt tới nỗi lòng, như trong bài Lý qua đèo".
Viết về mối quan hệ thân thiết giữa thiên nhiên và con người, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đơn cử một cách ứng xử đầy nghĩa tình của người Huế với cây xanh. Theo anh: "Cho đến nay, người Huế vẫn còn duy trì một phong tục cổ xưa về tình bạn cao quý đó. Khi người chủ vườn qua đời thì những người già đem buộc băng tang vào những cây quý trong vườn để cây khỏi tàn lụi theo, vì người ta tin rằng cây cũng vui buồn cùng với con người". Người Huế chăm chút vườn "với tất cả ý thức văn hóa và đã nhận lại từ cây cối những lời ngụ ngôn thầm lặng" (Hoa trái quanh tôi)..
Trong văn hóa ứng xử của người Huế có một tục tạ ơn đầy chất nhân văn – đó là tục tạ ơn cây của những người làm vườn xưa. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường cung cấp cho người đọc một phong tục nhân hậu, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa vườn cây và con người (Hoa trái quanh tôi). Nhân vật bà Lan Hữu trong mẩu ký đã nhỏ nhẹ tâm sự: "Người làm vườn xưa có tục tạ ơn cây. Cuối năm có cái lễ nhỏ, có hột nổ, pháo và ít giấy vàng bạc dán vào gốc cây. Không phải thờ cúng thần thánh chỉ là mình đã nhận của nó nhiều thì trả lại cho nó chút ít. Cô không làm như người ta, nhưng con người biết ơn cây là phải". Có thể nói đó là cách ứng xử rất Huế.
Như tất cả những ai quan tâm đến môi trường thiên nhiên xứ Huế, lại là nhà văn nhạy cảm với mối quan hệ giữa con người và môi trường, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhiều lần lên tiếng báo động về sự hủy hoại thiên nhiên trong lành của Huế. Trong mẩu ký Thành phố và chim, Hoàng Phủ Ngọc Tường day dứt: "Bây giờ thì tất cả đã bay về phương trời nào không biết... Bây giờ thành phố vắng bóng chim, hầu như chim chóc đã bỏ Huế mà đi. Nguồn cơn ấy bởi vì đâu? ". Bằng nỗi trầm tư đầy tâm huyết người thi sĩ thiên nhiên ấy đã lên tiếng đánh động về sự hủy hoại môi trường của vùng đất kinh kỳ cũ và tìm giải pháp nhằm bảo vệ thiên nhiên vườn Huế, để một ngày nắng ấm những cánh chim lại bay về – "những đàn còn hoàng hôn, lũ quạ mùa mít chín, con chim ca cút kêu đò, con chim khách lẫn vườn cau, con chim chèo bẻo lẫn cây măng vòi, và sau cùng, cả con chim bói cá sặc sỡ bay vù qua ký ức tuổi thơ của tôi, mê hoặc như ảo ảnh" (Thành phố và chim).
Huế trong những trang văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường mang âm hưởng huyền hoặc của những thành quách rêu phong, những khu vườn trầm mặc, cổ kính, những rừng thông u tịch, nét trữ tình của núi Ngự sông Hương. Đã từ lâu sông Hương núi Ngự đã trở thành biểu tượng gắn kết trong thơ văn. Trong đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Huế, sông Hương núi Ngự mang vẻ đẹp cân xứng, hài hòa. Nhà văn đã tìm thấy trong vẻ đẹp sơn thủy hữu tình này một sự hòa nhập "văn hóa dòng sông", và "văn hóa núi". Sông Hương đã trở thành đối tượng thẩm mỹ của thơ ca nhạc họa, nhưng chỉ dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông thi ca này mới được soi chiếu từ nhiều phía. Dòng Hương chảy tràn trên những trang ký của anh, nhiều dáng vẻ. Có khi sông Hương là "một cô gái di-gan phóng khoáng và man dại, có khi là "mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở", có lúc sông Hương trở thành "một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya". Đến với những trang ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường, người đọc có dịp hiểu rõ thêm về cội nguồn sông Hương và văn hóa Huế. Sông Hương và "văn hóa sông ngòi" ấy dường như được Hoàng Phủ Ngọc Tường thu tóm lại trong một mẩu huyền thoại đẹp khép lại những trang ký bộc lộ một cái tôi trầm tư và nồng cháy suy tư: "Ai đã đặt tên cho dòng sông? Có nhiều cách trả lời cho câu hỏi ấy. Trong đó, tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước trăm loài hoa đổ xuống lòng sông, để làn nước thơm tho mãi mãi. Tôi lĩnh hội ý của truyền thuyết ấy như thế này: con người đã đặt tên cho dòng sông như nhà thơ chọn bút hiệu của mình, gửi gắm vào đấy tất cả ước vọng muốn đem cái Đẹp và tiếng Thơm để xây đắp văn hóa và lịch sử".
Không thể kể ra hết những câu, những chữ, những lóng lánh tài hoa trên những trang ký viết về sông nước thiên nhiên của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Không thể trích dẫn hết những câu vào loại "tuyệt bút" của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Văn phong Hoàng Phủ Ngọc Tường có những câu đẹp như không phải là viết mà như trào ra từ đầu ngọn bút trong một "phút linh" không trở lại. Và tôi chợt hiểu vì sao nhà văn Tô Hoài, một trong những bậc thầy về nghệ thuật ngôn từ, khi giới thiệu tập ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không viết gì thêm ngoài chính những dòng văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, để rồi cuối cùng bật thốt lên: " Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trằm cả tâm hồn trong khuôn mặt cuộc đời cùng với đất trời, sông nước của Huế". Trong mọi không gian và thời gian, dưới ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Huế hiện ra quen thuộc mà lạ lẫm đến bất ngờ. Bằng những con chữ có hồn anh đã góp phần làm nổi rõ bản sắc của thiên nhiên Huế và con người Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã góp cho ký Việt một tiếng nói riêng của một nhà văn rất Huế.
3. Sinh thời nhà văn Nguyễn Tuân nhận định: "Ký Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều ánh lửa". Hẳn rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp nhận rất nhiều ánh lửa của đời sống và luôn giữ cho tâm hồn mình nồng ấm. Chất lửa ấy là một phần tâm hồn của nhà văn. Niềm tin về cuộc sống của nhà văn thật lớn lao. Giữa bao nhiêu thăng trầm cuộc sống, anh tin rằng "chim phượng hoàng sẽ bay về núi cũ, bầy ong mật sẽ sống lại trên những hoa rừng nở đầy thung lũng". Niềm tin ấy đã giúp anh vượt qua hết mọi trắc trở kiếp người, để hôm nay Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường như một món quà tinh thần to lớn anh dành cho cuộc đời.
Một nhà văn lớn phải là một nhà văn vượt ra khỏi giới hạn của văn học vùng, văn học địa phương để trở thành nhà văn dân tộc và vươn đến ngưỡng cửa thế giới. Tôi tin rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đạt được điều đó. Nhưng dẫu sao vẫn cứ muốn dành Hoàng Phủ Ngọc Tường cho Huế, bởi từ lâu anh đã làm một mảnh hồn thân thuộc của Huế rồi. Xin được mượn những câu thơ của Nguyễn Trọng Tạo để hiểu thêm về "người thi sĩ thiên nhiên":
Sao thèm một điệu gì xưa lắm
Thèm đọc một đoạn văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
Có ai đó rót chiều vào chén ngọc
Huế dịu dàng xây bằng khói và sương
.
Huế, tháng 5/2002
L.T.H

(nguồn: TCSH số 161 - 07 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐÀO DUY HIỆP    “Hội làng mở giữa mùa thu     Giời cao gió cả giăng như ban ngày”                                            (Nguyễn Bính)

  • YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...

  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.

  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.

  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...