Xin đừng đánh đồng lý luận với phê bình

16:18 11/06/2009
TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

Vậy mà nhiều người cứ thường xuyên nhầm lẫn luận với Phê bình. Khi nói đến Lý luận thường hay kéo theo Phê bình và ngược lại. Vì vậy, mặc nhiên, hai khái niệm này đã trở thành một "anh em song sinh" với cụm từ không thể chia cắt: Lý luận và Phê bình, hoặc Lý luận-phê bình. Gần đây nhất, trên báo Văn nghệ trong bài "Nhạc trưởng của văn học" tác giả của nó đã không còn sử dụng dấu ngăn cách hoặc liên từ, mà cứ "hồn nhiên" viết: lý luận phê bình, đôi lúc lại đảo ngược thành: phê bình lý luận. (xin xem: Báo Văn nghệ, số 33, 16/8/2003).

Sự đánh đồng trên đã dẫn đến tình trạng: rất nhiều cây bút phê bình tự ngộ nhận mình là nhà lý luận văn học! Trong các cuốn sách của họ, chỉ là sự tập hợp những bài viết tản mạn, vậy mà vẫn cứ "chương" ra ở bìa bằng cái tên rất to tát: Lý luận - phê bình. Thử nhìn lướt qua trên giá sách của bạn, điều tôi vừa nói sẽ được chứng minh.

Nhà lý luận đâu dễ dãi như vậy? Nếu quả thực có nhiều nhà lý luận như thế, hẳn nền lý luận văn học ở Việt Nam đã thực sự phồn thịnh! Nghiêm túc mà xét, ở nước ta hiện nay, có bao nhiêu nhà lý luận văn học đích thực? Rất hiếm. Lý luận với tư cách là một hệ thống thì lại càng hiếm.

Tình hình đánh đồng trên, theo tôi có hai nguyên nhân. Thứ nhất, đã trở thành một thói quen trong sử dụng. Thứ hai, không xác định rõ mục đích và đối tượng của hai phân môn nghiên cứu này. Đây chính là đầu mối cho mọi sai lầm khác, dẫn đến tình trạng đã đánh mất sự tự ý thức về nhiệm vụ của mỗi ngành nghiên cứu.

Lý luận và phê bình quả có mối liên hệ gần gũi, tương tác lẫn nhau. Lý luận cung cấp cho phê bình những kiến thức chung nhất, cơ bản nhất để phê bình có cơ sở đánh giá, nhận xét các hiện tượng văn học (cụ thể là có tác dụng xác định phương pháp luận phương pháp phân tích văn học). Đến lượt nó, phê bình lại cung cấp những luận cứ, luận điểm (các nhận định về nền văn học, tác giả, tác phẩm) để lý luận khái quát lên thành hệ thống có tính lý thuyết. Tuy cả hai đều soi sáng cho nhau, nhưng lý luận và phê bình đều có đối tượng, đặc trưng riêng không thể nhầm lẫn.

Lý luận văn học có nhiệm vụ nghiên cứu bản chất, chức năng xã hội và thẩm mỹ của văn học cũng như các qui luật phát triển của nó. Lý luận đòi hỏi khái quát ở mức cao nhất lý thuyết về những quan điểm, kiến thức, và phương pháp chung từ sáng tác, phê bình và nghiên cứu văn học sử... Vì vậy, lý luận vừa có ý nghĩa dẫn đường, vừa phải có độ lùi để đúc kết các đặc trưng, các qui luật của các hoạt động văn học.

Còn phê bình văn học là một bộ môn thiên về cụ thể và mang tính "tức thời". Đối tượng chính của nó là những hiện tượng văn học nóng bỏng, bức xúc đang diễn ra trước mắt. Nhà phê bình phải có nhiệm vụ kịp thời: hoặc khẳng định, ngợi ca, hoặc phê phán, phủ nhận... theo một lập trường, quan điểm thẩm mỹ nhất định nào đó. Và qua những nhận định, giải thích, bình giá đó, có tác dụng soi rọi những chuyển động văn học hiện thời, hướng dẫn thị hiếu cảm thụ văn chương cho công chúng. Vì vậy, nếu khái quát, trừu tượng là đặc tính của lý luận, thì cụ thể là đặc tính của phê bình.

Như vậy, lý luận và phê bình là hai khái niệm có nội hàm riêng, được xác định bởi các tiêu chí đặc thù. Đánh đồng các khái niệm này là một sai lầm nghiêm trọng. Nó chẳng những làm mất đi tính năng động, phong phú của khoa nghiên cứu văn chương, mà sẽ có nguy cơ dẫn đến sự triệt tiêu bản thể của mỗi khái niệm. Chừng nào xác định đúng, rõ đối tượng của các thuật ngữ thì chừng đó mới phát huy nhiệm vụ và ý nghĩa của mỗi ngành nghiên cứu văn học.

Ở Việt Nam hiện nay, tình hình lý luận văn học khá bế tắc. Với tư cách là một bộ môn có ý nghĩa phương pháp luận, lý luận chưa tỏ rõ hết chức năng của mình trước sự phát triển sinh động và phong phú của đời sống văn học. Nó đã không đáp ứng được những đòi hỏi bức bách của các hoạt động văn học và rõ ràng đã trở nên lạc hậu. Nếu cứ tiếp tục nhầm lẫn lý luận với phê bình, không đánh động trách nhiệm của các nhà lý luận, thì rồi đây, nền lý luận văn học Việt Nam sẽ đi về đâu?

Huế, 24-8-2003
T.H.S
(176/10-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHAN ĐÌNH DŨNG

    1. Có thể tìm hiểu những đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam thế kỉ XI - thế kỉ XIV qua một số phương diện tiêu biểu như ngôn ngữ, thế giới nghệ thuật hay hình tượng (con người, thiên nhiên, không/thời gian nghệ thuật), thể thơ, kết cấu, cách miêu tả thể hiện, giọng điệu… Đây là cách nghiên cứu “diện”.

  • ĐOÀN ÁNH DƯƠNG

    Tự Lực văn đoàn đã khởi sự hoạt động báo chí và văn chương của mình trong một thời điểm chứa đầy cơ hội và thách thức.

  • NGUYỄN MẠNH TIẾN    

    Sự tương hợp của những môtip truyện họ Hồng Bàng hay con rồng cháu tiên [viết tắt: rồng tiên] được chuẩn hóa như huyền thoại quốc gia bắt đầu từ trong truyền thống Ngoại kỷ của Toàn thư người Việt với vũ trụ luận Mường, Thái là một chủ đề thú vị.

  • Kỷ niệm 88 năm báo Phong hóa (7/1932 - 7/2020) và Tự Lực văn đoàn

    PHẠM PHÚ PHONG

    Nhất Linh là một kiểu mẫu hoàn hảo của trí thức Việt Nam, có thêm một cái gì rắn rỏi và thẳng thắn, rất hiếm có.                                                                                   (Sainteny)

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG     

            (Gởi Hoàng Thị Hạnh)

  • MAURICE BLANCHOT    

    Có lẽ Kafka muốn tiêu hủy tác phẩm của mình, vì chúng dường như với nhà văn tất sẽ làm tăng lên sự hiểu nhầm chung.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN

    Trong tình hình phát triển hiện nay của lý luận (thuộc mọi lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn) người làm công tác lý luận và phê bình văn học không thể không xem xét và xác định lại những khái niệm lý luận văn học, kể cả những khái niệm vẫn được xem là "cơ bản", "trung tâm", "cốt yếu"...

  • TRẦN NGỌC HIẾU    

    Vị trí tiên phong của Nguyễn Minh Châu trong tiến trình đổi mới văn học Việt Nam sau 1975 đã được thừa nhận ở nhiều khía cạnh như quan niệm về con người, nghệ thuật xây dựng nhân vật, tổ chức trần thuật...

  • THANH NGÂN  

    Kết cấu vừa là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động của tác phẩm, vừa là phương tiện khái quát nghệ thuật. Cho nên, nó đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc khái quát và thể hiện tư tưởng - cảm xúc của tác phẩm văn học nói chung. Khi đánh giá kết cấu tác phẩm không phải chỉ xét nó dưới sự hài hòa, cân đối của nội dung.

  • MAI VĂN HOAN  

    Số người biết về Nguyễn Hành hiện nay rất ít. Tôi có hỏi một vài người quan tâm đến văn chương, các vị ấy đều không hề biết Nguyễn Hành là ai.

  • PAUL DE MAN  

    Phát hiện khá muộn màng về tác phẩm của Georg Lukács ở phương Tây và gần đây nhất, ở đất nước này, đã có xu hướng cô đặc lại quan niệm về sự chia rẽ rất sâu sắc giữa Lukács thời kỳ đầu phi Mác-xít và Lukács thời kỳ sau theo Mác-xít.

  • ĐOÀN ÁNH DƯƠNG

    1. Không đơn thuần là “mô phỏng”/ “phản ánh”, một kiểu “chủ nghĩa đề tài” quen thuộc trong văn học về chiến tranh và cách mạng, văn học Việt Nam đương đại đã trực tiếp tham dự vào quá trình kiến tạo diễn ngôn dân tộc chủ nghĩa.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ

    Từ khi có bài báo ngắn Dân là gốc hay lấy dân làm gốc của Văn Như Cương (Văn nghệ số 48-1988), một số bạn đã viết bài bàn lại, nói chung cho rằng nói "Lấy dân làm gốc" vẫn không mất ý nghĩa tốt đẹp của nó. Tôi cũng tán thành với các ý kiến đó, mặc dầu tôi vẫn cho rằng dịch "dân là gốc" như anh Cương bàn cũng đúng.

  • NGUYỄN VĂN HÙNG    

    Chuột là loài vật luôn hiện hữu trong cuộc sống con người, bao gồm cả đời sống vật chất lẫn đời sống văn hóa tinh thần.

  • YẾN THANH  

    Đối với mỗi người Việt Nam, chuột là một “người hàng xóm” tự nhiên quen thuộc. Thật ra, trong lịch sử của loài người, có lẽ không loài động vật nào gắn bó tự nhiên với chúng ta hơn loài chuột.

  • NGỌC TRAI

    Văn học ta trong những năm gần đây đang có dấu hiệu chuyển hướng và đổi mới một cách đa dạng, phong phú.

  • DƯƠNG BÍCH HÀ  

    Văn hóa dân gian, trong đó có âm nhạc, là một bộ phận nghệ thuật quan trọng trong nền văn hóa đa dân tộc của Việt Nam. Nó phản ánh sâu sắc những tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của con người. Nó gắn liền với cuộc sống sinh hoạt của nhân dân và phục vụ nhân dân. Song song với cuộc sống của con người, nó đã tồn tại qua mấy nghìn năm lịch sử đến nay.