NGUYỄN THANH TÙNG
Trong số ra ngày 25 tháng 11 năm 1990, một tờ báo chủ nhật xuất bản ở Hà Nội đăng bài "Giáo dục gia đình - S.O.S" của bạn đọc Lê Hòe.
Ảnh: internet
Tác giả phân tích tác động quyết định của giáo dục gia đình đối với sự hình thành nhân cách con người. Tác động đó là hiển nhiên, xưa nay chưa thấy ai phủ nhận. Điều phát hiện của tác giả là ở chỗ ông viết: "Nếu đúng cuộc đời mỗi con người thường khó tránh khỏi tác động của bốn nhân vật quan trọng nhất là người mẹ, người vợ (chồng), người thầy, người bạn, thì rõ ràng người mẹ và người vợ thuộc diện gia đình, còn người thầy thuộc diện nhà trường, người bạn thuộc diện xã hội. Như thế đủ thấy bằng những tình cảm gia đình thiêng liêng để thực hiện tốt sự giáo dục gia đình là quan trọng biết nhường nào. "Điều hơi lạ là tác giả không nói đến người cha. Phải chăng vì ông cho rằng tác động của người cha là hiển nhiên, nhắc đến là thừa? Hay vì ông muốn nhấn mạnh tác động của "tình cảm gia đình thiêng liêng" mà nhân vật đại diện và ban phát là người mẹ chứ không phải là người cha? Nhưng dù nghĩ thế nào đi nữa thì khi nói đến tình cảm gia đình, giáo dục gia đình mà không nhắc đến người cha là không thể được, vì đó là nhân vật trụ cột. Vai trò giáo dục của người cha là hết sức cần thiết, không chỉ khi con cái đang ở tuổi thiếu nhi mà nhất là khi chúng đã trở thành người thanh niên. Trong phương châm giáo dục trẻ con, chúng ta chỉ chú trọng những nhân tố mang tính chất xã hội, bỏ qua các nhân tố có tính chất gia đình, và chúng ta đang gánh chịu hậu quả của sự lệch lạc đó.
Lâu nay chúng ta nói và viết nhiều về thanh thiếu niên hư hỏng mà không thấy, chính không ít bố mẹ của thanh thiếu niên, là những người trong độ trung niên cũng hư hỏng. Tôi chưa nói đến cái hư của họ về mặt xã hội, trước tiên tôi nói đến cái tội bất hiếu của họ đối với cha mẹ. Chắc nhiều người còn nhớ nhân vật trong một vở kịch đã nói với cha đẻ nó: "Ông không phải là bố tôi" chỉ vì hắn muốn cướp cái nhà của ông ta và chắc cũng chưa quên chuyện "Một ông già tội nghiệp" (đăng ở một tờ báo chủ nhật ở Hà Nội) đã uất lên và lăn đùng ra chết vì bị con dâu mất dạy buộc cho ông lấy chiếc nhẫn vàng của nó mà thằng chồng khốn nạn câm miệng hến, không một lời la mắng vợ đã xúc phạm đến cha mình, một ông già trí thức về hưu suốt cuộc đời đã hy sinh tất cả cho con cháu. Và xin đừng tưởng đó chỉ là những chuyện hư cấu hoặc là những chuyện cường điệu. Hàng ngũ những trung niên, nam nữ bất hiếu với cha mẹ ở đâu cũng có và không hiếm lắm đâu. Mất hết lý tưởng chính trị xã hội, không hề biết lý tưởng đạo đức là gì, họ quay quắt chạy theo tiền tài danh vọng, sống ích kỷ cao độ, đầu óc hoàn toàn xa lạ với các khái niệm trung hiếu, biết ơn, không hiếm trường hợp họ phản cha phản mẹ. Và cũng không hiếm những gia đình ở đó phát sinh mâu thuẫn khá gay gắt giữa cha và con - vì quan điểm chính trị tư tưởng: cha thì chống quan liêu, độc đoán chuyên quyền, tiêu cực, tham nhũng, con thì ở trong bộ máy, làm cán bộ, làm cấp ủy, sống buông thả, đầu óc do tư tưởng cơ hội chi phối, động cơ hành động là lợi ích bản thân, xa lạ với khái niệm trách nhiệm chính trị trước dân trước Đảng. Xung đột thế hệ ở đây không phải do thái độ cố chấp của người già trước xu hướng theo cái mới của người trẻ, mà là sự xung khắc giữa quan điểm lập trường cách mạng của các ông cha với chủ nghĩa cơ hội của các đứa con. Có người nói đây là mâu thuẫn đối kháng giữa trung và nịnh. Đã có trường hợp cha không đuổi con ra khỏi nhà mình được đành phải bỏ nhà ra đi. Nhưng cũng cần phải nói điều ngược lại là có những người con đã trưởng thành, đã trở thành người lớn, người cán bộ trong bộ máy Nhà nước, bỏ nhà bố mẹ ra đi, đoạn tuyệt với gia đình. Lôgic của cuộc sống trong một xã hội đang băng hoại mất hết kỷ cương tất yếu phải đẻ ra những sự đổ vỡ, những bi kịch như kia.
Nhìn bao quát xã hội ta hiện nay thì không phải chỉ có tuổi thanh thiếu niên là có nhiều người hư, phạm pháp mà tuổi trung niên cũng có, tầng lớp người lớn cũng có và khó mà nói ở đâu có tỷ lệ hư, phạm pháp cao hơn, và chắc chắn là sự phạm pháp (bị truy tố hoặc không bị truy tố) ở hai tầng sau mang tính chất nghiêm trọng hơn nhiều, vì cái hư của người lớn là thủ phạm gây nên sự băng hoại của xã hội, thanh thiếu niên chỉ là nạn nhân. Và cái nhìn bao quát kia bắt chúng ta phải thấy sự thất bại của mình trong công cuộc xây dựng con người. Cơ thể xã hội gồm có trẻ con, thanh thiếu niên, trung niên, người lớn. Chúng ta báo động, kêu cứu, muốn giáo dục, cứu vớt thanh thiếu niên, cứu riêng bộ phận thanh thiếu niên thì làm sao cứu được! Cho nên vấn đề không phải là cứu thanh thiếu niên, cứu trung niên hay cứu người lớn mà cứu con người, con người chủ thể của xã hội. Trong Chủ nghĩa xã hội dù là ở giai đoạn nào, con người phải là con người làm chủ, con người tự do, con người được tự do phát triển. Đó là một điểm căn bản của Chủ nghĩa Mác. Có thực hiện được điều đó, ta mới thực hiện được tính ưu việt của Chủ nghĩa xã hội. Nhưng điều đó, chưa một nước nào làm được và hậu quả của tình trạng này là hết sức nghiêm trọng. Thảm kịch ở các nước Đông Âu, phân tích cho đến cùng, đó là sự nổi dậy của con người bị nô dịch hóa, không còn là mình nữa, mất hết tính tự nguyện trong sự tham gia vào công việc xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Con người được tạo hóa sinh ra để hưởng hạnh phúc trong tự do, không thể nào chịu đựng mãi thân phận tha hóa và sớm muộn rồi cũng phải tự giải phóng cho mình. Xã hội ta đã bắt đầu nhận thức được sự tha hóa của con người và không chậm trễ, đã nêu lên yêu cầu dân chủ hóa nền giáo dục. Đó là bước đầu, một bước căn bản, hết sức cần thiết, và cũng là một bước trở về với chủ nghĩa Mác: để cho mỗi con người phát triển tự do, ngay cả những ngày thơ ấu.
Với toàn xã hội ta, ở thời điểm này, khi ta bàn về cương lĩnh xây dựng đất nước, vấn đề chống sự tha hóa của con người, tức vấn đề dân chủ hóa, phải là vấn đề ưu tiên số một. Vấn đề phải được giải quyết không phải bằng một lời tuyên bố bằng câu bằng chữ, mà bằng sự lựa chọn một hình mẫu tổ chức Nhà nước có khả năng thực hiện một nền dân chủ thực sự: Nhà nước pháp quyền. Sự lựa chọn này thực ra cũng chỉ là một sự trở về, trở về với chủ nghĩa Mác, với tư tưởng Hồ Chí Minh, với tư duy pháp quyền đã xuất hiện sớm trong lịch sử xã hội loài người. Ở Trung Hoa cổ đại, ở cổ Hy La, những bộ óc cao cả đã suy nghĩ nhiều để tìm ra phương cách cai quản con người và xã hội tốt nhất, có hiệu lực nhất. Và cho đến nay, con người cũng chưa có cách nào để quản lý xã hội tốt hơn là dựng lên một Nhà nước pháp quyền hoạt động với một hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện để đảm bảo sự phát triển hài hòa của xã hội song hành với sự phát triển của con người. Một Nhà nước phi pháp quyền hoạt động bất chấp luật pháp, đứng trên luật pháp, sớm muộn sẽ thoái hóa thành một Nhà nước chuyên chế cực quyền, đối cực của nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa.
Bến Ngự, tiết lập Xuân 91
N.T.T.
(Cán bộ về hưu - Nguyên Tham mưu trưởng Mặt trận Bình Trị Thiên thời chống Pháp)
(TCSH45/03-1991)
Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...
Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.
1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.
Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.
Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).
*Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.
Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...
Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.
I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.
Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.
Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.
I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.
Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.
Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.
Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...
Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.
Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...
Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.