THIẾU SƠN
* Vĩnh Quyền sinh năm 1951 tại Huế, tốt nghiệp Đại học Sư phạm và cử nhân Văn khoa Huế 1974.
Nhà văn Vĩnh Quyền - Ảnh: internet
Năm 1986 nổi lên một tác giả trẻ - Vĩnh Quyền.
Bạn đọc chú ý cái tên còn rất mới này bởi hai lẽ. Một, Vĩnh Quyền xuất bản ba tiểu thuyết và một tập truyện ngắn trong cùng một năm(1). Hai, cả bốn quyển sách đều thuộc thể tài lịch sử, mảnh đất còn quá vắng vẻ trong khu vườn văn học hiện đại Việt Nam. Vắng vẻ tác phẩm giá trị. Trong khi đó, Vĩnh Quyền còn rất trẻ. Anh sinh năm 1951 tại Huế, tốt nghiệp Đại học Sư phạm và cử nhân Văn khoa Huế, năm 1974.
Dải đất miền Trung đầy biến động giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là đề tài, bối cảnh tiểu thuyết lịch sử của Vĩnh Quyền. Trong đó đậm nhất là đất Thuận - Quảng. Điều ấy thật tự nhiên. Miền Trung giữ vai trò quan trọng trong giai đoạn lịch sử này và Thuận Hóa, Quảng Nam có mối quan hệ máu thịt trong suốt quá trình vận động yêu nước và cách mạng. Vĩnh Quyền, đứa con của Huế và đồng thời là một cây bút trưởng thành trên đất Quảng. Anh có điều kiện thâm nhập thực tế, nghiên cứu quá khứ dầy dặn của vùng Thuận - Quảng. Khả năng xử lý tư liệu Hán - Nôm cũng là yếu tố tích cực giúp Vĩnh Quyền vượt qua ngưỡng cửa gian khổ của một nhà văn khi chọn đề tài lịch sử. Tư liệu cổ dường như một căn phòng khép kín đối với các nhà văn trẻ. Đấy là một trong những nguyên nhân vắng vẻ tác giả tiểu thuyết lịch sử hiện nay.
Tiểu thuyết của Vĩnh Quyền đã tỏ ra khá bén nhạy với cái mới, với tính thời sự. Tất nhiên không thời sự nóng bỏng kiểu Cù Lao Tràm của nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn. Mà là thứ thời sự lọc qua tấm gương phản chiếu của lịch sử. Vĩnh Quyền đã nỗ lực nối liền trang viết - dù viết về những chuyện xảy ra non thế kỷ trước - với trang đời tươi nóng hôm nay. Như nhà văn Alêcxây Tônxtôi đã viết: Tiểu thuyết lịch sử không chỉ là đèn chiếu hậu của cỗ xe, soi lại chặng đường đã đi qua mà chính là ánh đèn pha soi sáng quãng đường phải vượt.
Vầng trăng ban ngày có thể xem là cuốn tiểu thuyết đầu tiên, mạnh dạn xây dựng một hoàng đế triều Nguyễn làm nhân vật tích cực. Sách viết từ năm 1983, bốn năm sau, chúng ta mới được chứng kiến lễ đón rước hài cốt nhà vua yêu nước Duy Tân về cố đô yên nghỉ nghìn thu. Mạch nước trong tái hiện phong trào Duy Tân của thế hệ nho sĩ đầu thể kỷ XX. Tác giả đã bắc được một nhịp cầu giữa quá khứ và hiện tại, khẳng định truyền thống khát vọng đổi mới của ông cha để chúng ta có chỗ tựa tinh thần vững chắc trong cuộc vận động đổi mới tư duy đang diễn ra vào những năm cuối thế kỷ XX.
Trong tiểu thuyết của Vĩnh Quyền, mối quan hệ máu thịt giữa Huế và Quảng Nam - Đà Nẵng diễn ra đúng như quy luật phát triển của lịch sử. Huế bấy giờ là kinh đô. Quảng Nam - Đà Nẵng là cửa ngõ của kinh đô Huế, là tỉnh có tầm quan trọng hàng đầu trong Tả trực kỳ. Mỗi biến cố, dù nhỏ hay lớn của Huế, đều trực tiếp dội vào Quảng Nam và ngược lại. Trong cuộc khởi nghĩa 1916, tổng lý Phan Bội Châu quyết định chọn Quảng Nam làm căn cứ địa nhưng cần con dấu Văn lý mật sát của nhà vua trẻ Duy Tân để phụng kim thượng vi an dân cơ sở, cần nổ phát súng thần công khai hỏa từ Phu Văn Lâu (Vầng trăng ban ngày). Chúng ta lại thấy Hội Duy Tân chọn Quảng Nam làm đại bản doanh vì: Quảng Nam đất rộng, giàu, lại nhiều nhân vật yêu nước có tài thao lược. Quảng Nam ở trung độ cả nước, dễ liên lạc. Muốn phát triển mối giao lưu vạn quốc cũng thuận tiện, Quảng Nam có cửa khẩu Hội An, Đà Nẵng... Nhưng các danh sĩ Quảng Nam bấy giờ như Tiểu La Nguyễn Thành, Thái Phiên, Châu Thượng Văn... đã liên kết chặt chẽ với Phan Bội Châu, Lê Võ... ở Thuận Hóa và phải tôn Kỳ ngoại hầu Cường Để làm minh chủ, dù chỉ trên danh nghĩa (Mạch nước trong).
Và, qua tiểu thuyết của Vĩnh Quyền, các nhà yêu nước và cách mạng Quảng Nam hầu hết đều dính líu tới Huế. Thái Phiên, Trần Cao Vân ra Huế vận động hoàng đế Duy Tân khởi nghĩa, bị hành hình tại bãi chém An Hòa và được chôn chung một mộ sau lưng chùa Châu Lâm. Nam Giao (Vầng trăng ban ngày). Các kiện tướng phong trào Duy Tân Quảng Nam: Trần Quý Cáp, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng đều ra Huế dự thí, tiếp xúc sĩ phu kinh kỳ và đều chịu ảnh hưởng tư tưởng Duy Tân của cậu ấm tàng tàng Nguyễn Lộ Trạch, một danh sĩ đất Thuận Hóa. Thời bấy giờ, kẻ sĩ gặp nhau, có câu hỏi đầu môi: "- Đọc Thiên hạ đại thế luận chưa?" Đó là một tác phẩm chính luận thiên tài của Nguyễn Lộ Trạch. Về sau, khi Trần Quý Cáp, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng Nam du đến Phan Thiết kinh ngạc khi biết Nguyễn Lộ Trạch, khoảng hai mươi năm trước, đã đặt bước chân giang hồ tận đây để gieo hạt giống Duy Tân! Và, như nhà văn Nguyễn Văn Bổng nhận xét, cuộc gặp gỡ giữa Phan Bội Châu - Trần Quý Cáp, Phan Châu Trinh- Trần Quý Cáp trên sông Hương là những trang văn đặc sắc của Vĩnh Quyền (Mạch nước trong)(2).
Tiểu thuyết của Vĩnh Quyền rất cụm. Có thể nối các quyển sách lại với nhau bởi trình tự thời gian, biến cố, nhân vật và nhất là bối cảnh Thuận-Quảng. Đọc một lúc ba cuốn tiểu thuyết của anh dễ có cảm giác đang đọc một bộ tiểu thuyết nhiều tập.
Từ đặc điểm đó, cũng dễ nhận thấy Vĩnh Quyền chưa thật đều tay. Chẳng hạn Vầng trăng ban ngày cổ kính hơn Mạch nước trong trong tự sự cũng như đối thoại mặc dù chuyện xảy ra trong Mạch nước trong đáng ra phải "cổ kính" hơn chuyện của Vầng trăng ban ngày!
Về mặt tư liệu, Vĩnh Quyền tỏ có ra ý thức tôn trọng sự thật lịch sử. Cảm giác mỗi trang văn của anh đều lấp lánh chững chi tiết quý trong quá khứ bị bụi thời gian che phủ. Nhưng rất tiếc, đôi chỗ anh xử lý tư liệu chưa thật khoa học, gây hạn chế không ít cho giá trị của tác phẩm, nhất là trong Vầng trăng ban ngày. Đến nay, có khá nhiều giả thuyết về cuộc hội kiến giữa Thái Phiên, Trần Cao Vân và hoàng đế Duy Tân. Nhưng các nhà viết sử có đủ cứ liệu để chứng minh cuộc hội kiến ấy xảy ra ở Hậu Hồ chứ không phải Hồ Tịnh Tâm. Và trong Trước buổi rạng đông, nhà xuất bản tư tưởng mới của chi bộ Đà Nẵng thành lập sau khi hiệu sách Việt Quảng đã dời địa điểm chứ không phải ở đường Courbet... Nhưng, việc xác minh tư liệu lịch sử ở nước ta trong tình hình hiện nay là điều nói... không cùng!
Những gì Vĩnh Quyền đã đóng góp đều đáng quý. Riêng Mạch nước trong có thể xếp vào hàng những cuốn tiểu thuyết lịch sử hay xuất bản từ trước tới nay. Vĩnh Quyền còn trẻ, con đường sáng tạo nghệ thuật trước mắt anh còn dài và đầy thử thách. Anh có thời gian và điều kiện vượt qua những thiếu sót trong chặng đường viết văn vừa qua. Mong được đọc tác phẩm mới của Vĩnh Quyền trong một ngày gần đây với những thành công mới.
T.S
(SH28/12-87)
-------------------------
(1) Vầng trăng ban ngày - Kim Đồng, Trước buổi rạng đông - Phụ nữ, Mạch nước trong - Thanh niên, Người tử tù không chết - Đà Nẵng.
(2) Nguyễn Văn Bổng "Đọc tiểu thuyết Mạch nước trong". Văn nghệ số 50.- 1986.
Có nhiều khi trong đời, “trôi theo cõi lòng cùng lang thang” như Thiền sư Saigyo (Nhật Bản), bất chợt thèm một ánh lửa, một vầng trăng. Soi qua hương đêm, soi qua dòng văn, soi qua từng địa chỉ... những ánh lửa nhỏ nhoi sẽ tổng hợp và trình diện hết thảy những vô biên của thế cuộc, lòng người. “Trong mắt tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã là ánh lửa ấy, địa chỉ ấy.
1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).
(Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.
Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.
Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)
Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".
Nhà thơ Trinh Đường đã từ trần hồi 15g10’ ngày 28.9.2001 tại Hà Nội, thọ 85 tuổi. Lễ an táng nhà thơ đã được tổ chức trọng thể tại quê nhà xã Đại Lộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng , theo nguyện vọng của nhà thơ trước khi nhắm mắt.
Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).
Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.
Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.
Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...
Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.
LTS: Rạng sáng ngày 11-7-2001, Toà soạn nhận được tin anh Đoàn Thương Hải - hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, sau một cơn đột quỵ, mặc dù đã được gia đình, bạn bè và các thầy thuốc Bệnh viên Trung ương Huế tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi, đã rời bỏ chúng ta an nhiên về bên kia thế giới!Tạp chí Sông Hương - Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế xin có lời chia buồn sâu sắc tới gia quyến nhà văn.Sông Hương số này xin giới thiệu hai bài thơ cuối cùng của anh được rút ra từ tập thơ chép tay lưu giữ tại gia đình.TCSH
Thơ Đặng Huy Giang xuất hiện trên thi đàn đã nhiều năm nay; song thật sự gây ấn tượng với bạn đọc phải kể đến một vài chùm thơ mà báo Văn nghệ đăng tải trên trang thơ dự thi 1998 - 2000; đặc biệt sau đó anh cho ra mắt bạn đọc hai tập thơ một lúc: Trên mặt đất và Qua cửa.
Có lẽ với phần lớn không gian thơ Phan Trung Thành, làm thơ là trò chuyện ân tình với những bóng dáng cũ, thuộc về quê nhà.
Trong bài viết điểm lại văn học năm 2000, sự kiện và bình luận, tôi có nêu hai tác giả trẻ, cùng là nữ, cùng có tác phẩm đáng chú ý trong năm, một người tập truyện, một người tập thơ. Người thơ là Vi Thùy Linh.
(Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp: “Những lo toan năm tháng đời thường Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”
đầu tháng 4 năm ngoái, sau khi tuần báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam đăng truyện ngắn dự thi “Quả đồng chùy tóc bện” của Trần Hạ Tháp - một bút danh “mới toanh” trên văn đàn, tôi ghé tòa soạn “Sông Hương” hỏi nhà văn Hà Khánh Linh:- Chị biết Trần Hạ Tháp là ai không? Tác giả chắc là người Huế...
Trương Văn Hiến có sở học phi thường và mang trong người một hoài bão lớn lao: an bang tế thế bình thiên hạ.
(Qua “Sau tách cà phê” của Nguyễn Trác, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000.)1- Sau năm năm từ “Chiếc thuyền đêm” (năm 1995), hình như “đến hẹn lại lên”, nhà thơ Nguyễn Trác lại ra mắt bạn đọc tập “Sau tách cà phê”.