Y PHƯƠNG
Trong một lần đoàn nhà văn Việt Nam đi thực tế sáng tác ở Bình Liêu, Móng Cái (Quảng Ninh), tôi nghe mấy nữ nhà văn lao xao hỏi tiến sĩ - nhà văn Lê Thị Bích Hồng: “Đêm qua em viết à?” Bích Hồng ngạc nhiên: “Không đâu. Hôm qua đi đường mệt, em ngủ sớm đấy chứ”.
Ảnh: internet
Chừng như vẫn còn thắc mắc, một nhà văn hỏi tiếp: “Sao phòng em chong đèn đến sáng? Tưởng em viết cả đêm”. Bích Hồng bẽn lẽn bật mí: “À! Đó là thói quen ngủ trong ánh sáng. Em sợ bóng tối từ bé. Di chứng của chiến tranh đấy ạ...”.
Mọi người lặng đi không hỏi gì thêm...
Hai chữ “di chứng chiến tranh” qua câu chuyện của Lê Thị Bích Hồng cứ ám ảnh tôi không dứt. Đây là trường hợp hy hữu mà tôi được biết. Là người lính đã từng tham gia trận mạc ở chiến trường B2, tôi thấu hiểu sự hy sinh gian khổ của người lính, nhưng với tôi, còn một sự hy sinh lớn hơn rất nhiều, đó là từ phía hậu phương của những người mẹ, người vợ, người chị, những đứa con... mà các bản hùng ca Vệ quốc đều đã đề cập đến bằng nhiều góc độ khác nhau.
Chạm mắt vào tập truyện ký Vệ đê trong đêm trăng của chị, tôi mới hiểu người “sợ bóng đêm” phải dùng ánh sáng xua đuổi bóng tối là bởi cái ác của chiến tranh đồng nghĩa với bóng đêm. Cứ thế, thói quen này trở thành phản xạ tự nhiên, đồng hồ sinh học trong cơ thể chị bị lệch chuẩn từ lúc mới 7 - 8 tuổi đeo đẳng cho đến bây giờ: “Con sợ bóng đêm, sợ những nơi khuất nẻo, tối tăm. Hễ khi màn đêm buông xuống, con hãi sợ toát túa mồ hôi...”. (Vẫn có cha trong cuộc đời con). Có thể coi nỗi ám ảnh “bóng đêm” là một ký ức đau đớn nhất, một “di chứng” tinh thần về chiến tranh hiện hữu trong chính cuộc đời chị, đeo bám chị dai dẳng không yên.
Tôi cũng bất ngờ như với sự bất ngờ của nhà phê bình văn học Bùi Việt Thắng khi đọc bản thảo truyện ký của chị: “Tôi cũng cứ tưởng như công việc chuyên môn và vị trí công tác của chị - Phó Vụ trưởng Vụ Văn hóa - Văn nghệ Ban Tuyên giáo Trung ương dễ làm cho con người này “khuôn sáo, công thức, thậm chí trường quy, lấy đâu ra cảm hứng mà sáng tác”.
Tôi cũng thấy lạ “cái người này” tưởng chỉ viết lý luận phê bình thôi, ai dè sáng tác nữa, mà sáng tác cũng có duyên lắm”. Nhưng thực tế đã là câu trả lời khi Lê Thị Bích Hồng viết, chị còn là cây bút văn xuôi, dẫu xuất hiện chưa nhiều, nhưng tiềm tàng nội lực, cứ để người ta nhớ, người ta day dứt mãi. Vốn là học sinh tham gia đội tuyển văn toàn quốc, chị đã âm thầm sáng tác từ khi là học sinh phổ thông. Chị chưa in riêng sáng tác văn học, nhưng ký và truyện ngắn đã in chung trong các tập sách, như: Truyện ngắn về các nhà giáo Việt Nam, Viết tiếp tuổi hai mươi, Những kỉ niệm sâu sắc về ngành tư tưởng - văn hóa, Chuyện tình người lính biển… Đọc những truyện ngắn đăng báo của chị, tôi bất ngờ hơn với lối viết trẻ trung, cách khai thác tứ, cốt truyện khá uyển chuyển, giàu kịch tính và chất văn khá đẹp, ngôn ngữ giàu chất thơ... Không hẹn mà gặp, mấy nhà văn làm báo văn nghệ cũng chung với suy nghĩ ấy khi đã đọc truyện ngắn của chị. Nhà văn, nhà báo Đinh Quang Tốn (nguyên Phó Tổng biên tập Báo Công an nhân dân) cho biết: “Văn nghệ Công an đón và đăng một số truyện ngắn của Lê Thị Bích Hồng. Tác giả có lối viết truyện khá giàu chất thơ”. Khi đọc văn xuôi của chị, tôi cũng chung quan điểm với nhiều người: “Lê Thị Bích Hồng có sở trường ở thể loại truyện ngắn và tản văn. Văn đẹp, giàu chất thơ”.
Dư âm chiến tranh cách mạng là chủ đề xuyên suốt toàn bộ tập truyện ký Vệ đê trong đêm trăng của nhà văn Lê Thị Bích Hồng. Tôi thấy nhân vật trong tác phẩm của chị phong phú, nhiều thế hệ, nhiều cuộc đời; đa dạng nhiều giai tầng xã hội… Đó là người nông dân thuần hậu, chất phác; là người chị, người mẹ tảo tần, đảm đang, giàu đức hy sinh; là những sinh viên trẻ trung, yêu nước và vô cùng lãng mạn, yêu đời… và trên hết là người lính - “Anh bộ đội Cụ Hồ” cả trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và cả thời bình hôm nay.
Nhân vật của chị rất đẹp, đó là những người con ưu tú của dân tộc hiện lên với những phẩm chất yêu nước, kiên cường, mộc mạc, ân tình, thủy chung, tình nghĩa, tha thiết hòa bình, không tiếc máu xương hiến dâng trí lực cho đồng bào, cho Tổ quốc và nhân dân.
Nhân vật trong trang sách bước ra từ cuộc đời. Họ là nhân vật hư cấu văn học, nhưng đều thấp thoáng hình bóng những người thân trong gia đình chị. Chị viết bằng nước mắt và trải nghiệm của chính mình. Những bài ký Vẫn có cha trong cuộc đời con, Hành trình về quê nội, Đưa cha về quê ngoại thể hiện rất rõ điều đó. Đó là người ông nội ở Thừa Thiên Huế mà nhà văn chưa một lần biết mặt. Là người cha, người bác thân yêu tập kết ra Bắc đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Là bà o ruột (cô) ở lại quê hương nuôi ba mạ già cho các em tập kết và chính gia đình là một cơ sở cách mạng. Là người chú ruột - thương binh cùng trong một năm (1968) gánh 3 cái tang của mạ và hai người anh trai cùng tập kết (sau giải phóng cũng mới biết bà mất năm đó). Và đặc biệt là người mẹ - Một “Vọng phu sống” hôm nay thấp thoáng trong nhiều truyện ngắn của chị. Có thể nói một cách đầy tự hào, đây là một trong những gia đình giàu truyền thống cách mạng như bao gia đình Việt Nam khác.
Đọc tập truyện ký Vệ đê trong đêm trăng của chị, nhân vật nổi bật, xuyên suốt tác phẩm là người lính, người phụ nữ, những đứa trẻ… thời hậu chiến nhưng cuối cùng kết truyện ấm áp, thấm đẫm chất nhân văn, kể cả phải đối mặt với mất mát, hy sinh thì cái chết vẫn “gieo mầm cho sự sống”... Người đọc bắt gặp những cảnh huống của những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Mọi xung đột kịch tính đều xảy ra từ hai phía. Kẻ xâm lược và người bị xâm lược. Người ở hậu phương và người trên tiền tuyến. Một mô típ quá quen thuộc trong dòng văn học chiến tranh. Nhưng dưới con mắt nhà văn Lê Thị Bích Hồng, con người trong cuộc chiến hiện lên trước mắt đầy hy sinh gian khổ, nhưng chan chứa tình người, mang đậm chất thơ và thấm đẫm tình đồng chí. Cốt cách văn hóa của người Việt lấy tình làm trọng.
Tình cha con, tình vợ chồng, tình yêu trai gái, tình thương con người tràn ra cả trang viết. Và cũng nhiều trang sách, người đọc bắt gặp trái tim vị tha, nồng nàn, ấm áp. Dù ở ngoài mặt trận hay ở hậu phương xa xôi, những con người đều sống vì nhau và cho nhau. Ngay cả trong tình yêu, một địa hạt cố hữu sở hữu cá nhân, thế mà nhân vật trong tác phẩm của chị thật đôn hậu, nhẫn nhường: “...Tôi muốn có anh, độc quyền vòng tay nồng ấm, được tựa vào mái ngực rắn chắc, tin cậy ấy... nhưng Thắm thì sao? Hãy biết nghĩ cho người khác. Phải rất lâu mới nghĩ được như thế, tôi rụt rè:
- Anh à! Không thấy anh, Thắm lại đi tìm. Giờ này cô ấy vẫn chờ anh đấy! Mình về nhà đi. Anh nên... Thắm nhé...”. (Vệ đê trong đêm trăng).
“Hãy nghĩ cho người khác”, “hãy vì người khác” trở thành phương châm sống. Không phải ai cũng nghĩ và hành động được như vậy. Bởi trên đời này còn đầy lụy tục, còn đầy tham - sân - si. Chúng ta là người trần mắt thịt, cũng có chút tâm tính của kẻ phàm phu tục tử, cũng có lòng ganh ghét đố kỵ, có lòng tham đè nặng đến nỗi vầng trăng không mọc được…
“Hãy nghĩ cho người khác”, phải chăng đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời và văn nghiệp dẫu còn khiêm tốn của nhà văn Lê Thị Bích Hồng.
Tập truyện ký Vệ đê trong đêm trăng ra đời như một nén hương tri ân người cha. Như một món quà tâm huyết kính tặng mẹ. Như ngàn lời nhắn nhủ các con cháu về công đức, về tình sâu nghĩa nặng của các bậc sinh thành. Tôi bỗng thấy Vệ đê trong đêm trăng mướt mát như cỏ, mềm mại như gió, sáng long lanh như sương. Ta hãy nhắm mắt lại mà suy tưởng. Trên từng con chữ bỗng nghe có “tiếng tôm búng càng” và tiếng hôn nhau... rất ngọt.
Y.P
(SH317/07-15)
THỦY THANHCơn đại hồng thủy đầu tháng 11 năm 1999 được coi như "bản tổng kết thủy tặc" đầy bi tráng của thiên nhiên trong thế kỷ 20 đối với mảnh đất Thừa Thiên Huế. Nó đã gây ra nỗi kinh hoàng, đau thương, mất mát to lớn và cũng để lại không ít những hệ lụy nặng nề cho con người ở nơi đây. Và cũng chính nó - cơn lũ chưa từng có này - đã đi vào lịch sử.
BẾ KIẾN QUỐCNăm ấy, vào quãng mùa hè 1982, khi đang trực Ban văn xuôi của báo Văn Nghệ, tôi nhận được một bản thảo truyện ngắn kèm theo lời nhắn: “ Cái truyện này rất quan trọng đối với tôi. Rất mong được tòa soạn đọc kỹ và cho ý kiến. Mấy hôm nữa tôi sẽ quay lại”.
THÁI DOÃN HIỂUNgô Văn Phú là thi sĩ của đồng quê. Anh có thể viết nhiều đề tài như xây dựng, chiến tranh, lịch sử, tình yêu..., nhưng như lá rụng về cội, ngược về nguồn, Ngô Văn Phú trở lại nơi làng quê yêu dấu với một tình yêu bẩm sinh, yêu đến tận cùng gốc rễ như Nêruđa đã viết.
MAI VĂN HOANTrong số bạn bè cùng lứa thì Ngô Minh bước vào làng thơ muộn màng hơn cả. Nếu Lâm Thị Mỹ Dạ được chú ý ngay khi còn ngồi trên nghế nhà trường, Hải Kỳ có thơ in trên báo Văn nghệ những năm 69,70 thì Ngô Minh vẫn chưa hề có ai hay biết.
HOÀNG VŨ THUẬTCó những bài thơ đọc lên và bắt gặp ngay cái đẹp trong từng câu chữ. Lại có những bài thơ đọc đi đọc lại thấy hay mà không dễ gì tìm thấy ngay được. Nó như vẻ đẹp của người con gái có duyên thằm. Cái đẹp thầm kín, ẩn náu.
HOÀNG VŨ THUẬTTrong một bài thơ viết trên giường bệnh, trước khi mất vài hôm Thanh Hải tâm sự: Ta làm con chim hót Ta làm một cành hoa Ta nhập trong hòa ca Một nốt trầm xao xuyến (Mùa xuân nho nhỏ)
Tiểu thuyết "Vạn Xuân" (Dix mille Printemps) của nữ văn sĩ Pháp Yveline Féray viết về cuộc đời Nguyễn Trãi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dày trên 1200 trang, do Nguyễn Khắc Dương và một số cộng tác viên dịch, do Nhà xuất bản Văn học in năm 1997 đã được độc giả Việt Nam đón nhận nồng nhiệt.
PHAN VĂN CÁCTuy Lí Vương Nguyễn Miên Trinh (1820- 1897) là con thứ 11 vua Minh Mệnh triều Nguyễn, tự là Khôn Chương, lại có tự là Quý Trọng, hiệu là Tĩnh Phố (tên ngôi vườn ông ở) lại có hiệu là Vi Dã. Tuy Lí Vương là tước phong cuối cùng của ông (trước đó từng có tước Tuy Quốc công năm 19 tuổi).
HOÀNG CẦM(Lời Bạt cho tập thơ ĐÓA TẦM XUÂN của Trịnh Thanh Sơn - Nhà Xuất bản Văn học 1999)
NGUYỄN KHẮC PHÊTác phẩm đầu tay của tôi - tập ký sự “Vì sự sống con đường” (NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1968) viết về những đồng đội của tôi trong cuộc chiến đấu anh hùng bảo vệ tuyến đường 12A lên đèo Mụ Dạ, một đoạn đường trọng yếu trong hệ thống đường Hồ Chí Minh giai đoạn 1965-1966, được xuất bản năm 1968, nhưng bài viết đầu tiên của tôi được in trên báo chí khi tôi vừa tròn 20 tuổi và đang học tại Hà Nội.
Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn. Anh sinh ngày 4 tháng 11 năm 1930, quê ở xã Phong Bình, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nhà thơ mất ngày 15 tháng 12 năm 1980, tại thành phố Huế.
LÊ VĂN DƯƠNG1. Quý II năm 2005, Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh phát hành, nói đúng ra là tái bản lần thứ nhất cuốn Tản mạn nhớ và quên của Nguyên Ngọc. Cuốn sách dày 560 trang, tập hợp 15 bài viết của tác giả ở những thời điểm khác nhau nhưng đa phần là vào những năm 90 của thế kỷ XX và một vài năm mở đầu thế kỷ XXI.
PHAN CHÍNSau khi làm tròn vai một nhà chính trị, không giống như nhiều người khác, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm rời Thủ đô Hà Nội về Huế sinh sống.
NGUYỄN THỊ KIM THANH(Nhân đọc Tập thơ Ngày đầu tiên của Trần Hữu Lục - NXB Hội Nhà Văn, 01-2010)
HOÀNG NHƯ MAI - NGUYỄN VĂN HẤN Cùng với những tập quán cổ truyền ngày Tết dân tộc, từ cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nhân dân ta đã có thêm một tập quán quý báu nữa: đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ.
NGÔ MINHTôi đọc và để ý đến thơ Đông Hà khi chị còn là sinh viên khoa văn Trường Đại học Sư phạm Huế. Thế hệ này có rất nhiều nữ sinh làm thơ gây được sự chú ý của bạn đọc ở Huế và miền Trung như Lê Thị Mỹ Ý, Nguyễn Thanh Thảo, Huỳnh Diễm Diễm.v.v... Trong đó có ấn tượng đối với tôi hơn cả là thơ Đông Hà.
NGUYỄN ANH TUẤNKhông gian trữ tình không là một địa danh cụ thể. Mặc dù có một “thôn Vĩ” luôn hiện hữu hết sức thơ mộng trên toàn đồ trực diện thẩm mỹ của bài thơ, với những màu sắc, hình ảnh, đường nét:…
KHÁNH PHƯƠNGNhân cách văn hóa của nhà văn có thể được biểu hiện bằng những hành động, thái độ trong đời sống, nhưng quan trọng hơn, nó chi phối nhân cách sáng tạo của nhà văn.
HỒNG DIỆUTrương Mỹ Dung đời Đường (Trung Quốc) có một bài thơ tình yêu không đề, được nhiều nhà thơ Việt Nam chú ý.
NGUYỄN KHOA BỘI LANMột hôm chú Văn tôi (Hải Triều Nguyễn Khoa Văn) đọc cho cả nhà nghe một bài thơ mà không nói của ai.