Viết theo dặm hải trình

09:07 05/09/2019

VĨNH NGUYÊN  
             Hồi ký  

Boong tàu lau xong sạch bóng. Toàn thể mọi người tập trung boong trước ăn sáng. Ăn xong, tôi cùng một số anh em cụm lại (cũng ở boong trước) nghe đài tiếng nói Việt Nam. Hồi ấy, toàn phân đội, tàu nào cũng được phát một cái đài orionton để nghe tin tức, nghe chương trình ca nhạc vào những giờ nghỉ…

Ảnh: internet

Tôi nhìn thấy tay liên lạc tiểu đoàn từ trên bờ bước xuống cầu thang tàu rồi lên tàu. Như đã quen, tay liên lạc chui vào khoang thuyền trưởng. Một lát sau, thuyền trưởng Nguyễn Hoàng Thiết cùng tay liên lạc đi lên và tới chỗ chúng tôi. Thuyền trưởng Thiết nói với tôi: “Đồng chí Vinh, về phòng thay quân phục chỉn chu rồi lên tiểu đoàn có việc gấp.”

Tôi cùng tay liên lạc đi lên tiểu đoàn đang đóng quân trong các nhà dân làng Hạ Đoạn. Vừa đi, tôi tò mò hỏi tay liên lạc cùng cấp binh nhất: Cậu có biết tiểu đoàn gọi tớ lên là việc gì không? Hắn ta nói: Có ông bộ binh mang quân hàm trung úy (ngang cấp tiểu đoàn trưởng) đang trao đổi công việc chi đó. Thì cứ lên rồi biết.

- Báo cáo tiểu đoàn trưởng, tôi binh nhất Nguyễn Quang Vinh, báo vụ tàu 171, tiểu đoàn 200, có mặt!

- Rất tốt, tiểu đoàn trưởng nói rồi chỉ chiếc ghế trống đối diện trung úy bộ binh đang ngồi. Trung úy bộ binh có khuôn mặt rất tươi đã chăm chú nhìn tôi từ lúc tôi bước vô nhà và đứng nghiêm đưa tay chào theo quân lệnh.

Tiểu đoàn trưởng 200 vẫn ngồi yên trên ghế của mình.

Trung úy bộ binh quay nhìn sang tôi, nói: Tôi tên là Nguyễn Phúc Nghiệp (không nói rõ chức vụ) ở báo Quân đội Nhân dân. Chúng tôi đã đọc mấy bản tin, bài của đồng chí gửi đến báo chúng tôi. Tòa soạn chúng tôi rất quý. Nhưng cánh hải quân ít bài lắm. Cánh bộ binh thì bài vở quá nhiều. Vì ít nên càng quý. Trung úy Nghiệp nói tiếp: Tôi vừa trao đổi với tiểu đoàn trưởng của đồng chí, là đồng chí Vinh đã có ý thức về đơn vị của mình, tuyên truyền việc làm tốt của đơn vị lên mặt báo. Chúng tôi nhận thấy qua những bài đồng chí gửi tới, đồng chí rất có khả năng. Nếu chịu khó trau dồi, cần mẫn học tập rồi viết nhiều hơn nữa, tương lai, đồng chí sẽ trở thành một nhà báo chuyên nghiệp.

Tôi lặng lẽ không biết nói gì.

Tiếp đó, Trung úy Nghiệp mở cặp rút ra một tờ giấy đã in sẵn, những hàng có dấu chấm chấm (…) cũng đã ghi rõ họ tên, tuổi, quê quán, đơn vị công tác của tôi. Ở phía dưới đã có đóng dấu đỏ của báo Quân đội và người ký. (Người ký cấp hàm cao hơn trung úy Nghiệp). Trung úy Nghiệp nói tiếp: Chúng tôi muốn đồng chí Nguyễn Quang Vinh làm cộng tác viên của báo Quân đội Nhân dân, nếu đồng chí Vinh đồng ý thì ký vào đây. Trung úy Nghiệp đưa bút cho tôi, và tôi đã ký tên. Từ đó, tôi thành cộng tác viên của báo quân đội Nhân dân Việt Nam. (Khi đó vào khoảng gần cuối năm 1964). Trên đường từ trụ sở tiểu đoàn về tàu, tôi nghĩ lại những bản tin, những bài báo đã gửi cho báo Quân Bạch Đằng (báo lưu hành nội bộ của Bộ tư lệnh Hải quân) và báo Quân đội Nhân dân. Tôi lẩm bẩm trong mồm: Ồ cái thằng Vê, dân biển Thanh Khê tham gia cuộc thi bơi lội “Vượt sông Bạch Đằng truyền thống toàn quốc”, giật được cái giải bét mà tòa báo Quân đội Nhân dân chú ý tới mình đến vậy ta?

Sau đó không lâu, tôi nhận được báo biếu, báo Quân Bạch Đằng rồi tiếp báo Quân đội Nhân dân in bài của tôi. Báo Quân đội Nhân dân có gửi nhuận bút còn báo Quân Bạch Đằng “lưu hành nội” thì không. Tôi lại được bát phố đến 61 phố Cầu Đất mua lạng chè móc câu và cân kẹo lạc đường trắng về khao anh em tàu 171 thân yêu. Chiến sự miền Nam giữa quân dân ta với đồng minh chính quyền Sài Gòn ngày càng khốc liệt. Chúng hay cho tàu nhỏ chạy nhanh vượt tuyến ra quậy, khiêu khích vùng biển Vĩnh Linh và phía Bắc đảo Cồn Cỏ. Rồi sự kiện Vịnh Bắc bộ xảy ra. Phân đội có ba tàu, trong đó có tàu 171 của chúng tôi nhận nhiệm vụ vào ém ở cửa sông Gianh. Ôi gần nhà quá! Qua huyện Bố Trạch, qua thị xã Đồng Hới là tới quê tôi rồi. Một số anh em quê Bố Trạch, Quảng Trạch gần đôi bờ sông Gianh được thuyền trưởng linh động (thay nhau) về thăm gia đình bốn đến năm giờ đồng hồ. Còn chỉ một mình tôi là vô tuyến điện nên không được rời tàu. Sự kiện lịch sử xảy ra với Hải quân nhân dân Việt Nam: vào khoảng 3 giờ chiều ngày mồng 5 tháng 8 năm 1965, không quân Mỹ tập kích ra miền Bắc đánh phá 3 nơi: Cảng sông Gianh (Quảng Bình), Lạch Trường (Thanh Hóa) và Quảng Ninh.

Ba tàu phân đội rời bến ra giữa sông Gianh. Tôi được lệnh bỏ máy trực vô tuyến điện lên boong chuyền đạn. Trước khi chuyền đạn cho khẩu đội pháo boong trước, tôi lên đài chỉ huy lắp máy bộ đàm lên đầu thuyền trưởng để nhận lệnh chiến đấu với phân đội trưởng đang trên một chiến hạm khác. Máy bay Mỹ lao tới. Chúng lượn một vòng trên quân cảng. Pháo tàu phân đội được lệnh nổ súng rần rần. Bốn phi cơ Mỹ lượn trắng bụng trên dòng sông Gianh và thi nhau phóng bom. Lúc ấy, tôi đang trên đài chỉ huy chưa kịp xuống boong tiếp đạn. Tàu 171 trúng bom khói đạn mịt mù trùm kín. Đồng chí lái tàu ngã xuống dưới chân tôi hy sinh. Thuyền trưởng nhảy qua cầm tay lái. Tôi bị thương ở đùi phải. Thuyền trưởng vẫn bình an.

Sau một giờ bắn phá, quân cảng sông Gianh đã bị đánh sập. Máy bay Mỹ đã cút. Hai tàu có chiến sĩ hy sinh, bị thương được lệnh cập cảng phụ làng Thuận Bài để nhờ địa phương an táng số quân hy sinh và băng bó thương binh. Tôi được lên bờ, chân đi cà nhắc. Một ông nông dân cao lớn sốc nách tôi lên lưng cõng vào một ngôi nhà cạnh bờ sông để các cô y tá băng bó cho nhiều người. Số chiến sĩ an lành được lệnh lấy những thoi gỗ đã cất sẵn trong kho và búa ra nêm chặt hai mạn tàu bị nhiều lỗ thủng. Người bị thương nặng được lệnh ở lại địa phương chăm sóc. Tôi bị thương nhẹ, băng bó xong, tôi xin trở lại tàu. Tôi nhìn hai mạn chiến hạm 171 như nhìn con nhím đang xù lông thế thủ trước địch thủ muốn tấn công mình.

Đêm đó, tàu 171 được lệnh về đốc Hải Phòng sửa chữa. Còn hai tàu của phân đội vẫn ở lại sông Gianh. Chiến hạm 171 bị thương tích đã đưa chúng tôi về đốc X46 Hải Phòng. Phiên họp toàn thể tàu, thuyền trưởng công bố số anh em quê Hải Phòng được nghỉ phép ba ngày. Nếu ai là ngành trưởng các ngành phải nộp lên cho thuyền phó bản “kế hoạch sửa chữa” của ngành, mới được rời tàu. Thuyền phó lên cảng vụ báo cơm. Tôi cũng theo thuyền phó lên đó để lấy báo. Báo tuần, tạp chí tháng tôi đặt về đây cuộn tròn như những ống thổi lửa khá nhiều. Tôi kiếm sợi dây bó thành một bó to vác về phòng. Số anh em thích đọc tạp chí Văn nghệ Quân đội, tôi cho họ mượn bớt. Còn tôi, cứ theo dấu bưu điện ngày báo tới mà mở ra đọc dần dần...

Nhà máy đóng tàu Bạch Đằng đã sơ tán nhiều loại máy ra các bến bãi, che lán để hoạt động. Nhờ thế, tôi làm quen một cháu gái mới 16 hoặc 17 tuổi tên Nga xin vào nhà máy học làm thợ máy. Nga kể, nhà cháu chỉ có 3 người là bố, mẹ và Nga, nhà đang ở phố Thượng Lý, gần cầu Thượng Lý. Tàu 171 sắp hạ thủy. Mà hạ thủy là phải đi xa. Tàu phân đội hai chiếc đang hoạt động vùng biển khu 4, Quảng Bình. Tôi tâm sự với thuyền trưởng Thiết: phòng báo vụ nhỏ hẹp nhất tàu, mà sách báo, tạp chí chật ních. Vậy xin thuyền trưởng cho sơ tán chúng nó lên bờ. Sơ tán lên đâu? Gần cầu Thượng Lý, nhà cháu Nga vào nhà máy Bạch Đằng học làm thợ máy. Nhiều vậy phải đi mấy chuyến mới hết? Báo cáo thuyền trưởng chỉ một chuyến thôi. Em cho hết vào hai bao tải. Em đã liên hệ được cái xe đạp không chuông, không phanh, của bác đi chợ trên cảng vụ. Mày giỏi thật. Làm nhanh lên. Không kịp với máy bay Mỹ thì toi giữa đường. Tôi chuyển được hai bao tải lớn sách báo, tạp chí tới nhà cháu Nga bên kia cầu Thượng Lý khi cháu Nga không có ở nhà.

... Cũng năm 1965, điểm mà không quân Mỹ ném bom đầu tiên xuống Hải Phòng là cầu Thượng Lý. Chúng muốn cắt đứt mạch giao thông đường bộ chính giữa hai thành phố lớn Hải Phòng - Hà Nội. Tàu 171 đang hoạt động dài ngày ở một tọa độ xa được lệnh trở về Hải Phòng. Tàu vừa cập cảng đã nghe xôn xao máy bay Mỹ vừa đánh phá cầu Thượng Lý. Chúng đánh nhanh rồi rút nhanh. Chúng tập kích bất ngờ. Nhưng lực lượng phòng không Hải Phòng đã cảnh giác. Rada ta phát hiện sớm đã cho nổ súng đón đầu nên chúng thi nhau bổ nhào, dội bom nhưng không trúng cầu mà trúng vào các nhà dân. Tin cho biết nhiều người bị thương và một bé gái chết cháy thiêu, tội lắm!

Chắc nhà cháu Nga bị rồi? Họ có đi sơ tán không? Hay đã đi sơ tán nhưng chủ quan lại trở về nhà? Những băn khoăn của tôi, tôi trình bày với thuyền trưởng. Và xin thuyền trưởng cho tôi chạy nhanh lên đó xem tận mặt rồi chạy về. Thuyền trưởng nói: tàu mới về có lệnh gì cấp tốc thì sao? Nhưng ông cười rồi đổi giọng thân mật: Tớ cho cậu chạy 2 tiếng có kịp không? Tôi bảo kịp. Ông lại bảo: Tớ cho cậu mặc thường phục, buộc giày cho chặt mà chạy!

Tôi làm i như vậy.

Cầu Thượng Lý chưa bị sập. Tôi vượt qua. Nhà cháu Nga bị sập hoàn toàn. Tôi hỏi nhiều người gần đó về những người trong gia đình nhà cháu Nga có ai việc gì không. Họ nói cả nhà đó đi sơ tán nên chưa hề biết nhà mình bị cháy bị sập. Tôi nhìn qua nhà xa xa 100m nhiều người xôn xao, có người khóc. Tôi lại hỏi nhiều người. Họ bảo: Chú qua đó mà xem. Tội nghiệp lắm, một cháu gái 10 tuổi bị bom thiêu đen thui. Bố mẹ nó còn sống đang cấp cứu ở bệnh viện. Giờ bà con đang tính an táng cháu như thế nào? Tôi lại chạy ù qua đó. Đúng là một bé gái bị cháy đen, tóc sém vàng. Gia đình này đã đi sơ tán bỗng mang cả con về... Tôi vừa chạy về tàu vừa khóc tức tưởi như khóc cho đứa em gái của mình... Tôi chạy trở về tàu không nhanh như lúc chạy đi. Bởi chỗ vết thương ở đùi mảnh đạn vẫn còn nằm trong đó. Khi làm thuốc y tá chỉ rửa qua thuốc đỏ rồi băng mà đâu biết mảnh đạn chui vào sâu. (Đến bây giờ, mảnh đạn vẫn còn trong người tôi. Mùa lạnh giá có buốt đôi chút, còn bình thường thì không hề gì, nó đã thành quen. Các con tôi có phàn nàn: Sao ngày trước ba không giải phẫu vết thương, làm thẻ thương binh? Giờ mỗi kỳ thi, ba biết không, các con được công thêm một điểm rưỡi! Tôi quát: Việc các con học là lo học cho giỏi. Còn đây là việc của ba. Bạn ba vừa đồng đội vừa đồng hương ngã chết dưới chân ba thì bây giờ gia đình người ta được những gì? Ba là thủy thủ. Ba còn khỏe, chớ lo. Bruce Weigl - Nhà thơ nước Mỹ, năm 1967 là lính chiến ở chiến trường Quảng Trị, nay cùng đoàn nhà văn Mỹ sang thăm và giao lưu với nhà văn tỉnh Thừa Thiên Huế, qua Đào Kim Hoa phiên dịch, tôi và Bruce vui vẻ nắn bóp vết thương của nhau. Sau đó, tôi viết “Brucs Weigl và tôi” có câu: … Rồi chúng tôi sờ nắn vết thương nhau/ Như hỏi nơi ấy có còn đau?). Nay chạy nhanh, chạy lâu căng cơ nên rất đau. Nhưng vì sợ trễ giờ tôi vẫn chạy. Tôi tin với tốc độ tuy hơi chậm nhưng chạy liên tục vẫn kịp giờ.

Tôi bước lên tàu là nằm vật ra boong. Thuyền trưởng cười còn hoan nghênh: Giỏi, còn những 15 phút kia đấy!

Nhớ em bé bị chết cháy, tự nhiên tôi nhẩm hai từ “ngọn lửa”. Tôi nghĩ: lửa này không phải lửa đạn của quân thù mà là ngọn lửa căm hờn tột độ của nhân dân ta với quân đế quốc! Và đêm đó tôi viết bài thơ “ngọn lửa”, mà không viết bài cho báo.  

NGỌN LỬA  

Em ngủ
Quyển sách gối đầu nâng giấc em ngoan
Anh nhìn em ngủ
Đôi tay trần trắng trong

 
Tối nay em ngủ sớm
Anh bảo cả nhà đi đứng nhẹ nhàng
Thương em theo trường sơ tán
Thứ bảy chiều qua em mới đạp xe về

 
Nhưng em tôi không thể nào dậy nữa
Ôi em tôi
Mới đây thôi
Với đôi tay trần trắng trong màu sữa
Giờ biến thành màu than
Mái tóc em mảng cỏ sém vàng!


Em ngủ?
- Không!
Em đã là ngọn lửa!

 
Tôi chép bài “Ngọn lửa” gửi báo Quân đội Nhân dân. Và được quý báo in trọn vẹn (vào cuối năm đó). Đó là bài thơ đầu tiên trong cuộc đời văn nghiệp của tôi sau này. Sự kiện này đã ghi trong (“Tổng tập Nhà văn quân đội - kỷ yếu và tác phẩm”, do nhà xuất bản Quân đội Nhân dân ấn hành tháng 11 /2000. Phần thơ, tập 2 trang 140).

Sang năm 1966, Hải Phòng nhiều nơi bị máy bay Mỹ bắn phá dữ dội. Nhất là chúng phong tỏa cửa biển bằng ngư lôi, bom từ trường, bom nổ chậm. Tàu buôn nước ngoài chỉ thả neo ngoài khơi xa mà không thể nào vào cửa Nam Triệu để cập cảng Hải Phòng. Binh chủng Hải quân có sáng kiến phá thông luồng lạch, bằng cách: Cho tàu nhỏ, chạy tốc độ cao kéo theo sợi dây cáp gây kích nổ. Thế là bom nổ chậm, bom từ trường, thủy ngư lôi cứ nổ đùng… đùng… đùng… theo sợi dây cáp dài cả trăm mét… Sự sống, cái chết chỉ trong gang tấc!

Chiến tranh ngày càng ác liệt. Tàu lại cách bờ. Tôi đâu còn kịp thăm ai. Thân tình như thuyền trưởng Thiết, và chiến hạm 171 mà chúng tôi rất đỗi tự hào bởi nó cùng mang tên - số hiệu với Trung đoàn (sau này giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Trung đoàn 171 chuyển vào Nam thành Lữ 171), qua năm 1967 đã phải chia tay nhau, mỗi người đi nhận một nhiệm vụ mới khác… Tôi nhận nhiệm vụ bảo quản tàu ở hang Ma (Vịnh Hạ Long - Quảng Ninh). Về đây buồn quá! Thầy mẹ tôi đã mất, ngôi chùa Bảo Thiên thầy mẹ tôi xây dựng khi tôi chưa ra đời và cả ngôi nhà ba gian hai chái đã ra tro bụi. Gia đình hai chị gái tôi ở Quảng Bình đang sơ tán vào rừng, hai em tôi đứa vào bộ đội đặc công, đứa gái út ra Hà Nội học đại học cũng sơ tán học ở các tỉnh trung du xa xôi làm sao gặp được. Tết lại đến. Đêm, chim lợn kêu éc éc trên các hòn đảo mới rời rợi buồn…

Cách mạng miền Nam ngày càng phát triển mạnh. Quân ta thắng nhiều trận lớn. Có cả một Trung đoàn Việt Nam cộng hòa bỏ súng đầu hàng quân giải phóng ở mặt trận đường 9 - Nam Lào. Nếu không bảo quản tàu cho tốt thì khi giải phóng miền Nam, ta lấy đâu ra tàu mà vào giải phóng? Công việc bảo quản tàu còn dài…

Tôi về Trung đoàn 171 nhận lệnh mới: bổ sung vào phân đội mới ba tàu lên Hà Nội với nhiệm vụ bảo vệ cầu Long Biên lịch sử, chia lửa với quân dân Thủ đô chờ quân giặc tới! Và mười hai ngày đêm Điện Biên Phủ trên không đã diễn ra… Tàu tôi đậu phía bờ sông Hồng gần Bát Cổ Viện, tàu chỉ huy đậu gần cầu Long Biên phía Gia Lâm bắn máy bay bổ nhào, tàu thứ ba đậu phía trên làng Bắc Cầu bắn chéo cánh sẻ. Súng, pháo quân dân Hà Nội cùng nổ ran trời. Tôi lên boong trước chuyền từng băng đạn cho khẩu đội pháo 37 hai nòng.

Ta nhận định đúng. Chúng thi nhau bổ nhào phóng bom phá cầu Long Biên. Từng chiếc, từng chiếc lao xuống phóng bom và mất hút. Chẳng có ai nói máy bay bốc cháy, mà nói “cầu Long Biên đã gãy rồi”. Tôi nhìn thân cây cầu, nó gãy đoạn gần bờ phía Gia Lâm, gần tàu chỉ huy. Chắc tàu chỉ huy không thể tránh khỏi thương vong? Tàu chỉ huy hy sinh ba pháo thủ. Đêm đó, họ được an táng trong vườn dâu của làng Bắc Cầu. Mấy tháng sau trên báo Thủ đô có in bài thơ của nhà thơ Bằng Việt, có câu: “Tháng tám cầu nhô hai nhịp gãy”, thế mà tôi đứng gần, nhìn rất gần cầu Long Biên gãy gục lúc khói bom trùm kín mà chẳng viết được câu nào?

Tin vui truyền đi mọi nẻo đường, mọi ngôi nhà: Ta đã buộc Mỹ ngừng ném bom trên toàn miền Bắc Việt Nam, trong một hiệp định tại Paris năm 1973. Phân đội tàu chúng tôi trở lại Hải Phòng. Đơn vị cho tôi nghỉ phép 12 ngày về thăm gia đình ở Quảng Bình. Ôi sung sướng quá! Về nhà gặp được hai chị, còn hai em đang ở xa thì không sao. Nhân cơ hội này tới thăm các anh chị trong Hội Văn nghệ và Sở Văn hóa Quảng Bình. Trước đó, tôi đã gửi nhiều thơ về hai địa chỉ này và được đăng khá nhiều. Giờ tôi tới thăm mang quân phục hải quân, vai gắn lon thượng sĩ, mũ trắng, hai dải mũ có gắn mỏ neo lất phất bay chắc họ quý tôi lắm? Sáng hôm sau, tôi tới cơ quan Hội Văn nghệ Quảng Bình, gặp anh Xuân Hoàng - Phó Chủ tịch trực Hội, tôi đặt vấn đề thẳng với anh là muốn chuyển ngành về Hội. Nhiều người rất tán thành, nhưng nhà thơ Xuân Hoàng nói: Riêng mình thì mình đồng ý rồi, nhưng còn tổ chức cậu ạ. Để tôi hội ý Ban Thường vụ rồi trả lời đồng chí việc tiếp nhận. Nhà thơ cười ha hả nói thêm: 10 giờ sáng mai Vĩnh Nguyên trở lại đây có được không? Tôi trả lời: Dạ được, rồi nói thêm: Quý hóa quá, trong thời gian này em được đi thăm bà con, rồi còn trả phép. Đường còn nhiều hố bom xe phải đi vòng... Nhà thơ Xuân Hoàng lại cười ha hả, nói: “Chúng tớ ở trong túi bom còn lạ lùng gì. Thôi em về gặp bà con. Mai đến đúng giờ nghe”...

Tôi cầm tờ tiếp nhận nhân viên mới có chữ ký, đóng dấu đỏ của Ban Thường vụ Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Bình, về đơn vị. Còn đứng trên bờ, chưa bước chân xuống cầu thang gỗ để lên tàu, tôi đã bô bô với các chiến hữu bộ phận buồm dây: Bây giờ tớ là dân sự rồi nhé.

Huế 24/05/2019
V.N  
(TCSH366/08-2019)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • PHẠM THỊ ANH NGA15-12-2002Hình như trong đám đông tôi vẫn luôn là một bóng mờ. Một bóng dáng nhạt mờ, lẩn trong vô vàn những bóng dáng nhạt mờ khác, mà giữa trăm nghìn người, ai cũng có thể “nhìn” mà không “thấy”, hoặc có vô tình “thấy” cũng chẳng bận lòng, chẳng lưu giữ chút ấn tượng sâu xa nào trong tâm trí.

  • PHẠM THỊ CÚC                       KýTôi sinh ra ở một làng quê, không những không nhỏ bé, hẻo lánh mà còn được nhiều người biết đến qua câu ca dao "Ai về cầu ngói Thanh Toàn/ Cho em về với một đoàn cho vui".

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG                                        Bút kýNhiều lần thức giấc trong mùi hương rạo rực của ban đêm, tôi chợt phát hiện ra rằng Huế là một thành phố được dành cho cỏ. Tôi không hề có ý xúc phạm, chỉ muốn lưu ý thêm về vai trò của cỏ trong quy hoạch đô thị. Thật vậy, không nơi nào trên thế giới mà những công trình kiến trúc của con người lại mọc lên giữa cỏ hoang như ở Huế. Đà Lạt cũng được xây dựng trên những ngọn đồi; nhưng ở đấy, hình tượng của cây anh đào và cây thông đã khiến người ta quên mất sự có mặt của cỏ dại.

  • THÁI VŨ        Ghi chépNhững năm đầu kháng chiến chống Pháp, từ Quảng Nam- Đà Nẵng vào Bình Thuận lên Tây Nguyên được chia ra làm 3 Quân khu thuộc Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, cụ Cố vấn Phạm Văn Đồng là đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ. Qua năm 1947, 3 Quân khu (QK 5, 6 và Tây Nguyên) hợp nhất thành Liên khu (LK) 5.

  • PHƯƠNG HÀ                     (truyện ký)Cho anh em trong phân đội trở về các vị trí giấu quân xong thì trời cũng vừa sáng. Đang giăng võng để ngủ lấy sức sau một đêm trinh sát, tôi chợt nhớ phải đến thăm Hoà vì Hoà sắp đến ngày sinh nở. Chúng tôi đang ở ngay làng của mình nhưng làng không còn nhà, dân bị giặc lùa đi hết, muốn tìm nhau thì phải tìm đến những căn hầm.

  • LÊ TRỌNG SÂMTrong cuộc đời của mỗi chúng ta, khi Bác Hồ còn sinh thời, được gặp Bác một lần đã quý. Trong cuộc sống của tôi, do có nhiều hoàn cảnh, nhiều duyên may lại được gặp Bác đến ba lần thì càng quý biết bao nhiêu. Tự đáy lòng, tôi thầm cảm ơn Đảng, cảm ơn Bác đã cho tôi ba lần vinh dự như vậy. Và những kỷ niệm đó vẫn còn tươi nguyên.

  • PHẠM THỊ CÚC                         Ký…Tôi chưa thấy ai hay ở xứ nào làm các tác phẩm mỹ thuật từ cây với dây... Nếu gọi là tranh thì là một loại tranh ngoài trời, lấy tạo hoá, thiên nhiên làm cốt, không giới hạn, dãi nắng, dầm mưa, đu đưa theo chiều gió, màu sắc cũng thay đổi từng giờ, từng phút, tuỳ theo ánh sáng mặt trời hay mặt trăng. Cho nên, tác phẩm rất linh động…

  • LÊ VĨNH THÁI                Ghi chép Sau chặng đường dài gần 20 km vượt qua các con dốc cao ngoằn ngoèo, hiểm trở, tôi đã đến “hành lang” công trình hồ Tả Trạch, nằm giữa vùng rừng núi bạt ngàn thuộc xã Dương Hoà, huyện Hương Thuỷ. Công trình hồ Tả Trạch được khởi công xây dựng ngày 26/11/2005, là công trình trọng điểm của Thừa Thiên Huế và của cả nước, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu của Chính phủ, với tổng mức đầu tư khổng lồ 2659 tỷ đồng. Đây là một trong những công trình lớn của vùng Đông Nam Á.

  • TRƯƠNG ĐÌNH MINH                                 Ký Đợt này trở lại Trường Sơn, tìm hiểu thêm các tấm bê tông xi măng vắt qua đỉnh Trường Sơn, lượn quanh các đèo U Bò, Cù Đăng, A Dớt - A Tép mưa mù phủ trắng... Có đỉnh như đỉnh Sa Mù cao trên 1400m mà đợt tháng 3/2003 vừa rồi chúng tôi đã có mặt. Song do mưa liên miên, xe vận chuyển vật liệu, vật tư đi lại co kéo quá nhiều, đường lầy lội. Các đơn vị thi công chưa hoàn thiện phần nền...

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                              Bút kýNhiều năm rồi tôi vẫn nghe, đồng chí đồng đội, nhân dân Dương Hoà và những người từng ở hoặc đã qua lại nơi đây trước chiến tranh, khẳng định rằng: Sau khi hy sinh, thi hài liệt sĩ Ngô Hà được đơn vị tổ chức an táng tại sườn tây núi Kệ, nơi có khe suối Ngân Hàng chảy qua thuộc vùng chiến khu Dương Hoà. Trước ngày giải phóng miền Nam, mỗi lần ngang qua chỗ ông nằm mọi người lại tự ý đắp thêm một viên đá nhỏ, để cho ngôi mộ ấy sớm trở thành hòn núi như mới mọc lên từ đất, ghi dấu chỗ ông yên nghỉ ... Chờ ngày chiến thắng.

  • ĐỖ KIM CUÔNGNăm cuối cùng của bậc học phổ thông, tôi được học 2 tiết văn giới thiệu về "Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945". Cũng không có tác phẩm thơ hoặc văn xuôi được tuyển chọn để phân tích, bình giảng như bây giờ. Ngày ấy - những năm chống Mỹ cứu nước, thơ văn lãng mạn được xem là điều cấm kỵ.

  • TRƯỜNG ANChúng ta đang sống giữa những ngày rực lửa truyền thống hào hùng của Tháng Năm trong lịch sử cách mạng Việt và thế giới. Trước hết, hãy nhắc đến một sự kiện lớn của giai cấp công nhân quốc tế. Ngày 1.5.1886, do yêu cầu không được đáp ứng một cách đầy đủ, công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!”.

  • PHẠM THỊ ANH NGA       Gởi hương hồn bạn cũTôi qua đến Pháp ngày hôm trước thì hôm sau ba tôi mất. Cái tin khủng khiếp đó đối với tôi vẫn không đột ngột chút nào, bởi từ những ngày hè về thăm nhà, tôi đã biết trước ba tôi sẽ sớm ra đi.

  • TÔ VĨNH HÀEm hẹn gặp tôi ở quán cà phê Trung Nguyên. Đó là địa điểm em tự chọn. Cái tên ấy cho tôi biết rõ là giữa hai chúng tôi không có gì nhiều hơn một cuộc trao đổi bình thường. Tuy nhiên, sự mách bảo từ nơi nào đó của linh cảm và cả ước muốn, cứ làm cho tôi tin rằng đó là điểm khởi đầu. Đêm cuối xuân, Huế gần như ít buồn hơn bởi cái se lạnh của đất trời. Huế bao giờ cũng giống như một cô gái đang yêu, đẹp đến bồn chồn. Nếu được phép có một lời khuyên thì chắc hẳn tôi đã nói với tất cả những người sẽ được gần nhau rằng, họ hãy cố chờ đến một đêm như thế này để đến bên nhau. Bầu trời mà Thượng đế đã tạo ra sẽ cho mỗi con người biết cách đến gần hơn với những lứa đôi.

  • CAO SƠNChuyện xưa: Vua Hùng kén tìm phò mã cho công chúa Ngọc Hoa, đồ lễ vật phải có gà chín cựa ngựa chín hồng mao? Thôi thúc Lạc dân xưa kia, đánh thức tiềm năng người dân phải tìm hiểu, lặn lội từ đời này sang đời kia chưa thấy. May sao với thú đi để biết, anh Trần Đăng Lâu, cựu chiến binh, hiện Giám đốc vườn quốc gia Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ cho hay: Vườn quốc gia nguyên sinh anh Lâu đang quản lý, mới phát hiện giống gà lạ ấy. Con vật đặc biệt chưa có ai biết tới, chưa được phổ biến rộng rãi, thương trường chưa có cuộc trao bán...

  • NGUYỄN HỮU THÔNG                             Bút ký"Buổi mai ăn một bụng cơm cho noChạy ra bến đòMua chín cái tráchBắc quách lên lò

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG                                                Bút kýTrong hồi ức của một số cán bộ lão thành cách mạng ở A Lưới kể lại rằng: “Hồi đó có một số người ở đồng bằng tản cư lên sống cùng đồng bào; qua họ, đồng bào nghe đến tên Cụ Hồ, nhưng đồng bào chỉ biết đầy đủ về Bác cũng như thấu hiểu được những điều Bác dạy qua các cán bộ người Kinh lên hoạt động ở đây vào khoảng những năm 1945-1946. Cán bộ bảo: Cụ Hồ muốn nhân dân mình học lấy cái chữ để biết bình đẳng. Muốn bình đẳng còn phải đánh Pháp. Nếu đoàn kết đánh Pháp thì ai ai cũng đánh Pháp và khi đó đồng bào ta nhất định thắng lợi” (1)

  • PHAN TÂM        (Kỷ niệm 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du 1765-2005)Tháng Hai 1994:Từ Vinh qua cầu Bến Thủy, rẽ trái độ mười cây nữa, đến xã Xuân Tiên (Tiên Điền), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Khu đất cao ráo ở ngay đầu xã, bên bờ sông Lam, cạnh bến Giang Đình, là khu nhà cũ, khu lưu niệm Nguyễn Du.

  • LTS: Phát hành tới hàng trăm ngàn bản, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là cuốn sách duy nhất (có thể nói như vậy) gây được xúc động cho các thế hệ độc giả trong và sau chiến tranh, cho cả hai phía xâm lược và chống xâm lược nhờ tính chân thực của nó.Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một số trang trong cuốn Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm và hai bài viết liên quan đến cuốn sách

  • NGUYỄN QUANG HÀ                        Truyện kýHoà thượng Thích Đôn Hậu gọi đại đức Thích Trí Diệm lên phòng riêng:- Ta đang mắc công chuyện không thể xa Huế được trong thời gian này, nên ta cử thầy vào chùa Hải Đức, Nha Trang tham gia cuộc thuyết pháp quan trọng tại đó. Thầy đi được chớ?Đại đức Thích Trí Diệm cúi đầu thưa:- Dạ, được ạ.