Văn Công Toàn cũng chọn thơ ca để gửi gắm tâm tình. Anh bén duyên với thơ khi còn tham gia phong trào đấu tranh của thanh niên, học sinh, sinh viên miền Nam. Anh làm thơ không phải để đăng báo, để mọi người đọc mà đơn giản anh viết cho chính mình, cho người thân và bạn bè. Qua đó, anh cũng muốn gửi chút tình cho cuộc sống mà mình mến yêu. Sau tập thơ Khúc ru tình (NXB Thuận Hoá, 1999), anh quyết định xuất bản tập thơ thứ 2 mang tên Tình dâng. Không cầu kỳ, không đánh đố bạn đọc bằng ngôn từ, Tình dâng là tập thơ rất đỗi giản dị mà thiết tha. Đọc thơ anh không tránh khỏi cảm giác quen. Quen bởi nó là thơ, là một phong cách thơ rất riêng. Âm điệu, ngữ nghĩa dễ dàng bắt gặp ở bất kì bài thơ nào. Chính chất trữ tình và ngôn ngữ giản dị đã làm cho mỗi vần thơ của anh mang đầy tính mỹ học: “Tôi ru giấc ngủ của tôi Ru từ năm tháng mồ côi mẹ hiền Mẹ ru quả thị cô tiên Tôi ru khó nhọc muộn phiền vây quanh Ru đêm trằn trọc năm canh Ru ngày sáu khắc đã thành nguồn cơn Không ghen tuông để dỗi hờn Không tham chức tước để buồn công danh Ru nghìn thu thoáng mong manh Ru tôi muôn thuở độc hành thi ca.” (Ru tôi) Văn Công Toàn là nhà báo, thế nhưng, nhắc tới anh, mọi người lại nghĩ ngay đến một người yêu thơ và “chăm chỉ” làm thơ. Dù nghề báo chi phối phần lớn thời gian, anh vẫn dành tâm huyết cho những vần thơ đong đầy tâm trạng. Không lạm dụng những chiêu “quái” để thoát khỏi “khuôn vàng thước ngọc”, không sáng tạo ra cái thứ “ngôn ngữ quái đản” như học giả Phan Ngọc từng định nghĩa về ngôn ngữ của thơ, thơ Văn Công Toàn nhẹ nhàng, sáng trong, tạo được một ấn tượng rất “thơ” cho người đọc. Với tình yêu, anh không hoa mỹ mà mộc mạc, dung dị và chân thật như chính con người anh. Đọc những bài thơ 2 câu của anh, tự nhiên thấy hoang mang về một thi pháp mới. Là thơ nhưng người đọc dường như vẫn cứ có cảm giác, đó không hẳn là thơ mà là những cảm xúc anh lượm lặt được trên hành trình đi qua cuộc sống: “Tuổi em mười sáu đã tròn Tình ta sáu chục vẫn còn ngây thơ …” Hay: “Em hiền như hạt mưa thu Mưa chưa ướt áo hiền từ ướt anh!” Dẫu là gì đi nữa thì những câu thơ ấy vẫn có một sức lay động khá đặc biệt với những con người đang yêu và giàu cảm xúc. Trong văn chương truyền thống, tình bạn thường là quan hệ tri thức: tri âm như Bá Nha - Tử Kỳ; tri kỷ như Montaigne - La Boetie; khoa giáp như Nguyễn Khuyến - Dương Khê… Văn Công Toàn cũng chọn thơ để bày tỏ tình bạn. Thơ viết về tình bạn, tình thơ của anh khá nhiều và bất cứ bài nào cũng đầy ắp những tình cảm sâu nặng mến thương: “Anh say men rượu Thiên Thai Ngất ngây tình Huế đền đài ngả nghiêng Câu thơ đắc đạo toạ thiền Thi nhân tột đỉnh thần tiên nhập hồn” (Thơ hay cảm tác - tặng nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo) “Thư bạn tôi tìm trong nét chữ Nỗi niềm chi khắc khoải người ơi Muốn gửi lòng mình đi muôn nẻo Đem thơ trải hết với cuộc đời” (Đọc thư Trần Hữu Nghiễm) Raxun Gamzatốp từng nói: “Là tất cả, thơ ơi, chỉ trừ không chịu là yên tĩnh!”. Gần nửa đời cầm bút, Văn Công Toàn chưa bao giờ để lòng mình yên tĩnh. Những cảm xúc tưởng rằng rất đời thường đi vào thơ anh luôn day dứt, cuồn cuộn sóng: “Chợt nhớ gì, nhớ đến đìu hiu Chẳng phải tình, chẳng phải vì yêu Chiều mưa xứ Huế sao mà lạnh Nhớ mưa trưa nối tận mưa chiều” (Chiều mưa xứ Huế) Đọc và nghĩ ngợi, chợt nhận ra thơ Văn Công Toàn đáng quí bởi anh là người có “tâm thơ”. Thơ hay không hẳn nằm ở câu chữ. Đôi khi nó đơn giản chỉ chuyển tải một thông điệp yêu thương được viết bằng chính trái tim. Trong tập thơ Tình dâng đã có dấu vết lắng lại của thời gian, tôi nhận ra Văn Công Toàn đang bày tỏ tình yêu cuộc sống bằng tất cả tâm hồn mình. Hơn mười năm anh đã trăn trở để có được tập thơ thứ hai. Đó là sự quý trọng thực sự của nhà thơ đối với Thơ! Huế, tháng 7/2010 L.H (259/9-10) |
MAI VĂN HOAN Nhà xuất bản Văn học vừa ấn hành tập thơ Cõi lặng của Nguyễn Khoa Điềm. Cõi lặng gồm 56 bài, đa phần được viết sau khi tác giả nghỉ hưu. Điều đó cũng là lẽ thường. Các nhà thơ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến... đều như thế cả. Khi đương chức họ bận trăm công nghìn việc. Phải đến lúc nghỉ hưu họ mới sống thoải mái hơn, dành nhiều thời gian cho thơ hơn. Đọc Cõi lặng ta mới thấu hiểu tâm trạng của nhà thơ, mới nghe được nhịp đập của một trái tim nhiều trăn trở.
HỒNG NHU“Trường đại học của tôi” là cuốn sách thứ 4 của Nguyễn Nguyên An (tức Nguyễn Văn Vinh) trình bạn đọc trong khoảng mười năm trở lại đây. Ba cuốn trước là truyện ngắn, cuốn này là truyện dài.
NGUYỄN KHẮC PHÊChỉ mới qua hai tác phẩm “Báu vật của đời”(NXB Văn nghệ TPHCM, 2001) và “Đàn hương hình”(NXB Phụ nữ, 2002), Mạc Ngôn - nhà văn “hạng nhất” thuộc Cục Chính trị Bộ Tổng Tham mưu Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc - đã trở nên nổi tiếng ở Việt Nam, thậm chí đã vượt lên cả những “ngôi sao” quen thuộc như Giả Bình Ao, Trương Hiền Lượng, Vương Mông... và cả nhà văn Cao Hành Kiện (Noben 2001).
ĐỖ XUÂN NGÂNTôi hân hạnh được đọc tác phẩm Đời hoa, tập tản văn của nhà văn Nguyễn Khắc Phê do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành 1999.
NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Lãng Đãng Mây Trời của Thanh Nhơn - NXB Thuận Hoá - năm 2001)Gấp tập thơ "Lãng đãng mây trời" lại, tôi như thấy dưới mái tóc bồng bềnh trong gió của ông là cặp mắt nhìn xa xăm, phiêu diêu, và quanh đâu đây là hương rượu nếp thơm nồng toả ra từ vành môi tủm tỉm cười của ông.
HOÀNG BÌNH THI (Đọc thơ HÀ MINH ĐỨC)Trong cơn mưa đầu mùa tầm tã của xứ Huế, tôi đọc lại những bài thơ của giáo sư Hà Minh Đức với một nỗi buồn riêng. Một chút ngạc nhiên mà chẳng ngạc nhiên chút nào, khi song hành với sự uyên bác trong học thuật là một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế vô cùng.
LÊ THIẾU NHƠN(Tản văn và bình văn của nhà văn - nhà báo Trần Hữu Lục)Một cuốn sách tập hợp những bài báo của nhà văn Trần Hữu Lục sau nhiều năm anh đồng hành với bè bạn văn nghệ.
HOÀNG KIM ĐÁNGÔng nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ này là một trong những nhà văn châm biếm đứng hàng đầu thế giới. Hai mươi năm trước, ông đã đến Việt . Sở dĩ tôi khẳng định chắc chắn như vậy, bởi tôi có trong tay dòng bút tích ghi rõ năm tháng và chữ ký của tác giả; thậm chí còn chụp ảnh kỷ niệm với ông nữa. Tấm ảnh ấy, những dòng bút tích ấy, hiện còn lưu giữ trong cuốn truyện "NHỮNG NGƯỜI THÍCH ĐÙA", sách đó Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới của Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản lần thứ nhất.
HỒ THẾ HÀ(Đọc Cho từng ánh lửa, tập thơ của Hải Trung, NXB Thuận Hoá - Huế, 1999)Sự hiện diện của thơ Hải Trung trong đội ngũ những người sáng tác trẻ ở Huế là một niềm vui sau nhiều năm lặng lẽ âu lo của nhiều người về thế hệ làm thơ kế cận của xứ sở được mệnh danh là giàu mơ mộng thi ca này.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Đọc tập truyện "Ngôi nhà hoang bí ẩn" của Phan Văn Lợi)Tôi đọc mê mải tập truyện đầu tay của tác giả Phan Văn Lợi. Cái tựa "Ngôi nhà hoang bí ẩn" gợi trong lòng người đọc một câu hỏi ban đầu: Cuốn sách viết về cái gì đây? Càng đọc, càng bị cuốn hút khi cùng anh trở lại miền ký ức, để đi qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt.
LÊ MỸ ÝSau một loạt tác phẩm và tác giả được giới thiệu trên nhiều lĩnh vực tôn giáo, triết học, văn hoá, khoa học và nghệ thuật để làm tư liệu nghiên cứu và tham khảo, trong quý một năm nay, Nhà xuất bản Văn học lại tiếp tục cho ra mắt bộ sách lớn:"Krishnamurti - cuộc đời và tư tưởng" do Nguyễn Ước chuyển ngữ. Đây là một bộ sách công phu và được nhiều độc giả chờ đợi đón đọc.
VĂN CẦM HẢI (Nằm nghiêng - Thơ- Nxb Hội Nhà văn 5/2002)Trên đất Thư "viết buồn thành mưa". Dưới trời Thư "viết buồn thành gió". Giữa đời Thư "viết nỗi buồn sống".
TRẦN THUỲ MAIThơ Ngàn Thương bàng bạc một nỗi quan hoài. Trong thơ anh, ta luôn gặp một vẻ quyến luyến ngậm ngùi, đúng như ấn tượng từ cái bút danh của tác giả: Ngàn Thương.
NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Vậy là đã đúng một chu kì World Cup, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường bị “cải bệnh hoàn đồng” và phải tập ăn tập nói, tập đi tập đứng lại từ đầu. Dù vậy, anh vẫn viết được và viết hay như trước.Trong dịp Festival Huế 2002, đã diễn ra một cuộc hội thảo văn học về Hoàng Phủ Ngọc Tường nhân bộ tuyển tập của anh được Công ty Văn hóa Phương ấn hành.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một số ý kiến đã thành văn được trình bày trong hội thảo đó.
NGUYỄN THIỀN NGHIHai chữ "Trăng lạnh" trắng trên nền bìa màu lam do tác giả tự trình bày bềnh bồng một chút tôi bằng những bài thơ tự sự của mình.
VỌNG THẢO(Đọc sách "Nhà văn Thừa Thiên Huế" – NXB Thuận Hoá 2002).Trải qua nhiều thế kỷ, Huế bao giờ cũng là miền đất tụ hội nhiều nhân tài văn hoá - văn học của đất nước. Trong bảng quang phổ bản sắc Việt Nam vô cùng bền vững, miền đất hội tụ nhân tài ấy luôn đằm thắm, lấp lánh một bản sắc "thần kinh" riêng biệt - một bản sắc mà tiếng nói của văn chương là thuần khiết và đa dạng.
NGUYỄN VĂN HOA Tôi đã đọc sách Ăn chơi xứ Huế của nhà thơ Ngô Minh (*) một mạch như bị thôi miên. 247 trang sách với 36 bài bút ký viết về triết lý ẩm thực Huế, về các món ăn Huế như tiệc bánh, cơm muối, mè xửng, tôm chua, chè Huế, bánh canh, bún gánh, nem lụi, hôvilô (hột vịt lộn), bánh chưng, bánh khoái, cơm chay, chè bắp, món vả trộn, cháo lòng, rượu Minh Mạng Thang...
KIM QUYÊNĐọc tản văn của nhà văn Mai Văn Tạo (*) và nhà văn Trần Hữu Lục (*) tôi như đứng trên những tảng mây lấp lánh sắc màu, theo gió đưa về mọi miền, mọi nẻo quê hương.
HƯƠNG LANGuy de Maupassant sinh ngày 5-8-1850 ở lâu đài xứ Normandie. Trong một gia đình quý tộc sa sút. Khi mà nước Pháp vừa trải qua cuộc đụng đầu lịch sử giữa giai cấp tư sản hãy còn nhức nhối những vết thương thất bại của cuộc cách mạng năm 1848.
TRẦN ĐÌNH SỬTôi có duyên làm quen với Trần Hoàng Phố đã hai chục năm rồi, kể từ ngày vào dạy chuyên đề thi pháp học ở khoa Văn Đại học Sư phạm Huế đầu những năm 80. Hồi ấy anh đã là giảng viên nhưng theo dõi chuyên đề của tổi rất đều, tôi biết anh rất quan tâm cái mới. Sau đó tôi lại tham gia Hội đồng chấm luận án tiến sĩ của anh, được biết thêm anh là một người đọc rộng, uyên bác.