Victor Hugo - đại dương và ngọn hải đăng

16:19 12/08/2008
BỬU NAM            Kỷ niệm 200 năm ngày sinh của văn hào Victor Hugo (1802 - 2002)1. Người ta thường gọi Hugo là “con người đại dương”. Bởi sự vĩ đại của tư tưởng và sự mệnh mông của tình cảm của ông đối với nhân dân và nhân loại, bởi sự nghiệp đồ sộ của ông bao hàm mọi thể loại văn học và phi văn học; bởi sự đa dạng của những tài năng của ông in dấu ấn trong mọi lĩnh vực hơn hai thế kỷ qua trong nền văn học và văn hóa Pháp. Đến độ có nhà nghiên cứu cho rằng: Tất cả những vấn đề lớn của nhân loại đều hàm chứa trong các tác phẩm của Hugo như “tất cả được lồng vào tất cả”.

 Hugo đã bộc bạch: “Tôi ưa thích đôi điều ở tất cả mọi sự, hơn là tất cả mọi sự ở đôi điều” (Truyền kỳ các thế kỷ, đoạn viết năm 1860). Ý của ông muốn diễn tả qua cách phương thức tương phản và chơi chữ ở đây là sự quan tâm có tính chất bách khoa của ông, sự chú tâm hiếu kỳ của ông đối với tất cả mọi lĩnh vực cuộc sống, vũ trụ, con người hơn là chỉ đào sâu đến cùng tận, đến tất cả một vài điều. Hoặc ông còn viết: “Tâm hồn pha lê của tôi được Chúa đặt giữa lòng vạn vật, nó là tiếng dội vang của mọi sự” (Mặc Tưởng), hay “Thơ phải đi hẳn vào đáy sâu của cuộc sống, cộng tác với nó, lấy ở nó động lực và sự tồn tại”. Thơ hay nói rộng ra văn chương phải thể hiện “khuôn mặt đơn nhất và muôn hình, u ám và rực rỡ, định mệnh và thiêng liêng: đó là Con Người”, “Sự hiện hữu của con người, khởi nguồn từ sự bí ẩn của nôi ru đến sự bí ẩn của quan tài, đó là tâm linh đang bước đi”.
2. Tuy nhiên sự vĩ đại đó còn ở chỗ cảm quan nghệ thuật về con người của ông gắn chặt với sự tiến bộ và nhân dân. “Tiến bộ là sợi chỉ... Sợi chỉ lớn lao, bí ẩn xuyên suốt đường đi lắt léo như mê cung của nhân loại”, (Truyền kỳ các thế kỷ) “Nghệ thuật là ánh sáng đất trời rạng ngời trên vầng trán nhân dân, như ngàn sao lấp lánh trên trán Người, Thượng đế”, (...) “Nghệ thuật, người biến nhân dân nô lệ thành tự do, người biến nhân dân tự do thành vĩ đại” (Nghệ thuật với nhân dân, 7-11-1851),” Những ai suy tưởng là kẻ chiến đấu”... Nhà thơ là người chiến đấu chống bất công, áp bức “Ta sẽ đến, ngời ngời ánh sáng, với công lý trong lòng, roi ở trong tay, quất tung những lời thơ uất hận”.
Dostoievski là người hiểu tư tưởng nghệ thuật của Hugo một cách sâu sắc khi ông viết: “Tư tưởng của Victor Hugo là tư tưởng cơ bản của toàn bộ nghệ thuật thế kỷ XIX và ông là người đầu tiên phát ngôn cho tư tưởng đó... định thức của tư tưởng đó là: phục sinh con người đã chết, đã bị đè bẹp hết sức bất công dưới ách áp bức của hoàn cảnh xã hội, của tình trạng trì trệ bao thế kỷ và những định kiến xã hội. Tư tưởng đó là: Sự biện bộ cho những người bị chà đạp  và những kẻ khốn cùng bị xã hội ruồng bỏ...Victor Hugo hầu như người phát ngôn chủ yếu, đầu tiên của tư tưởng phục sinh đó trong văn chương của thế kỷ chúng ta. Ít nhất ông là người đầu tiên tuyên bố nó với sức mạnh nghệ thuật trong tác phẩm (Dostoievski toàn tập, nxb khoa học, 1972-1976, trang 525-526, bản tiếng Nga).
3. Quan điểm nghệ thuật tiến bộ đó được bộc lộ một cách độc đáo: “Lĩnh vực thơ ca không có bờ bến. Phải, phía trên thế giới thực, còn có một thế giới lý tưởng rực sang dưới mắt những ai nhờ suy tưởng mà nhìn thấy trong sự vật một cái gì cao hơn chính sự vật” (Hugo,lời tựa Đoản Thi và Thơ ca khác, 1822)
Sự độc đáo đó còn nhờ trí tưởng tượng và liên tưởng kỳ lạ phú bẩm của Hugo, như một nhà  nghiên cứu khác đã viết: “Hugo hình như thấy một cách rõ ràng với những đường nét chính xác và những màu sắc thực cái mà ông tưởng tượng nên. Và hình ảnh đó nhập làm một, hữu cơ với những ý niệm, tâm trạng mà ông muốn biểu hiện... (...) ông hòa nhập sự liên tưởng qua từ ngữ và âm vận vào những liên tưởng dựa trên cấu trúc diễn luận (...) một năng khiếu hình dung mạnh đến mức không hề có một sự rời rạc nào...”
Trên hết, còn nhờ tài năng sử dụng ngôn ngữ điêu luyện đến mức như là nhà phù thủy của ngôn từ, như nhà thơ Baudelaire đã ngợi ca rất hay: “Tôi thấy trong Kinh Thánh có một nhà dự ngôn mà Chúa đã ra lệnh ăn một cuốn sách. Tôi không rõ, trước đây, ở thế giới nào, Hugo đã ăn được một cuốn tự điển về cái ngôn ngữ mà ông phải nói lúc chào đời, nhưng tôi thấy ngôn từ Pháp khi ra khỏi miệng ông đã biến thành một thế giới, một vũ trụ đầy màu sắc, du dương và sống động” hay nói như Eli Faure, một nhà viết lịch sử nghệ thuật Pháp “ Toàn bộ bề mặt nứt ra, nhung nhúc và cựa quậy trong thơ Hugo”. Hugo thường biểu hiện những tình cảm phổ biến của con người bình thường với những từ ngữ của cuộc sống hằng ngày (...). Bên cạnh yếu tố hằng ngày, chất văn xuôi bình dị bao giờ cũng có một chất trữ tình bay bỗng, một  liên tưởng sâu xa tới cái gì còn bí mật, u uẩn của đời sống, có khi còn vượt xa hẳn cuộc sống(Đặng Thị Hạnh).

4. “Đại dương“ không chỉ là sự rộng lớn, mênh mông, kỳ vĩ mà nó còn là sự bí ẩn chưa có thể dò tới. Sáng tác của Hugo gợi mở những chân trời vô tận ở bình diện xã hội - lịch sử, cũng như bình diện “cái bên kia” “Phía mà con người linh giác rùng mình, ghê sợ và kinh hãi trước những thực tại và điều bí ẩn của vũ trụ (Jean Massin, lời tựa toàn tập Victor Hugo)
 Georges Piroué nhận xét: “V.Hugo không bằng lòng với việc sử dụng tiểu thuyết để soi sáng một thời điểm lịch sử mà còn để vượt lên bên trên nó... nối kết với lãnh vực truyền thuyết của kinh nghiệm nhân sinh (...) tạo nên một huyền thoại siêu hình và đạo đức, tính chất của một niềm tin(...) Tiểu thuyết của ông mở ra một cuộc du hành vào cái vô tận lớn, với kích thước khổng lồ của kính viễn vọng”.
...Nhân vật của tiểu thuyết Hugo thường mang dáng dấp một bán thần hoặc các vị thần trong một phút đột biến nào đó. Chúng được biểu hiện bằng phương thức anh hùng ca:... Cái thiện có gương mặt xấu xí ở đó và cái dễ ưa bên ngoài lại mang mùi thối rữa. Những kẻ lớn là bé ở đó và chiến công thành ra bại trận. Những tương phản thu hút nhau ở đó và nếu chúng kết hợp, thì chúng chỉ có thể là một lưỡng thể nghịch lý (...) Ở đây, bình diện hữu hình kết hợp với bình diện siêu hình, cái có thể thấy được kết hợp với cái không thể biết được ở trong nhân vật, cái ở dưới thấp mời gọi cái bên kia (Victor Hugo, Nhà viết tiểu thuyết hay những cõi bên trên của cái chưa biết, Nhà xuất bản Denoel, 1985). Còn Pierre Albouy cho rằng “Tâm lý học của Hugo có tính chất vũ trụ và huyền thoại”, “Mỹ học chi phối việc xây dựng các nhân vật là mỹ học của sự tương phản và đảo nghịch”, các nhân vật được phân bố theo liều lượng giữa ánh sáng và bóng tối, ở “đáy tối tăm” và “đỉnh ánh sáng” (Tập san Europe, số 3-4, năm 1962).
5. Hugo để lại một di sản đồ sộ, gần 18 tập, nhà xuất bản Câu lạc bộ sách Pháp, 1967-1970, và 15 tập, nhà xuất bản Robert Laffont, Coll, Bouquins, gần 17.500 trang khổ lớn, xuất bản năm 1985-1990, tái bản năm 2002, do 2 nhà chuyên gia Jacques Seebacher và Guy Rosa chú giải. Bộ này gồm 4 tập lớn về thơ với hơn 5000 trang, bao gồm hơn 20 tác phẩm thơ, gần 154.000 câu thơ, trong đó bộ anh hùng ca huyền thoại “Truyền kỳ các thế kỷ” hơn 1000 trang, 3 tập lớn về tiểu thuyết với 9 tác phẩm, 4500 trang, 2 tập lớn về kịch trên 2500 trang, gồm hơn 12 vở kịch, 1 tập các bài viết về chính trị 1500 trang, một tập về các bút ký về lịch sử: 1500 trang, 1 tập về phê bình, trên 1000 trang, một tập viết về “du hành” trên 1000 trang, một tập bút ký về biển, đại dương trên 1000 trang, một tập viết các đề tài khác nhau như: giáo dục, tôn giáo, triết học trên 1000 trang... Toàn bộ các tác phẩm này được xem như một bản anh hùng ca Ôđítxê kỳ lạ, khác thường, mời gọi thám hiểm một thế giới kỳ vĩ thực, mộng, linh giác thấu trị, tiên tri hòa lẫn vào nhau. Đó là chưa kể hàng ngàn bức thư Hugo viết cho Juliette Drouet, người tình vĩnh cửu và như là người vợ thứ hai của ông trong vòng 50 năm mà nhà xuất bản Fayard ấn hành năm nay.
6. Sự nghiệp Hugo đồ sộ như vậy, bởi theo Jean-Marc Hovasse - nhà viết tiểu sử mới nhất năm 2002 về Hugo: “Hugo có tham vọng chiếm vị trí hàng đầu trong mọi thể loại và mọi lĩnh vực. Bằng nghị lực phi thường và sự lao động miệt mài, thường xuyên, ông đã hầu như đạt được mục đích mà ông đã đặt ra. Sức mạnh làm việc của ông thật đáng kể, nhưng cường độ làm việc đều đặn mỗi ngày thật khó tin. Ông có khả năng hoàn thành một vở kịch trong vòng 15 đến 20 ngày, với một hệ thống khá kỳ diệu: ngày hôm nay viết gấp đôi ngày hôm qua; khởi đầu một tác phẩm, ông viết 5 câu thơ, hôm sau 10 câu, hôm sau nữa 20 câu, rồi 40 câu, 80 câu, 160 câu, và 300 câu thơ mỗi ngày vào cuối tuần. Ông như chìm sâu trong một trạng thái thứ hai khi viết kịch. Tiểu thuyết “Nhà thờ Đức Bà Paris” được viết cùng tốc độ, nhưng sự thúc bách của nhà xuất bản”.
Trong cuộc đời sáng tác của ông, có nhiều năm ông cho xuất bản 2 hoặc ba tác phẩm với các thể loại khác nhau như năm 1826 (1 tiểu thuyết, 1 tập thơ), 1827 (1 vở kịch, 1 tập thơ), năm 1829 (1 tập thơ, 1 tập kịch, 1 tiểu thuyết), năm 1831 (Tiểu thuyết Nhà thờ Đức Bà Paris và 1 tập thơ...)....
7. Hugo còn xem sứ mệnh của nhà thơ là cầm bó đuốc sáng dẫn đường cho nhân loại từ cõi tối tăm đến ngày mai sáng lạn”. Thơ, văn, bút ký, diễn văn của ông đầy chất tiên tri.
Và ngày nay, những lời tiên tri của ông đã được chứng nghiệm sự đúng đắn và sự chính xác kỳ lạ (Pierre-Marc de Biasi).
Ngay từ thế kỷ XIX, văn hào vĩ đại Nga Lép Tônxtôi đã nhận xét: Hugo là một nhà tiểu thuyết đứng trên thế kỷ của mình như mẫu mực của ý thức nghệ thuật và ý thức đạo đức hết sức cao cả (Tônxtôix toàn tập, bản tiếng Anh, tập XXIII, trang 299-300, 1904).
Hugo vừa chú trọng đến những vấn đề trọng đại của thời đại mình vừa hướng đến tương lai như ý kiến của Claude Duchet, sử gia lịch sử văn hóa Pháp: “Ngay cả khi tự nguyện sẽ phóng chiếu mình vượt qua khỏi thế kỷ XIX, Hugo đã đảm trách toàn bộ thế kỷ của ông, bao hàm cả cách mạng, cũng như chân lý, lương tri và lẽ phải của Lịch sử” (Tạp chí Lire, tháng 1/2002).
Còn nhà nghiên cứu M.Pierre-Marc de Biasi, người phụ trách số kỷ niệm về V.Hugo của Nguyệt san văn học Lire của Pháp thì cho rằng “Hugo là sứ giả của tương lai chúng ta, ông hướng dẫn nó”. Và cụm bài viết của tạp chí Lire này tập trung khảo sát di sản Hugo trong chiều hướng đó, với hàng loạt vấn đề: nền Cộng hòa, tính thế giới phổ quát, kỹ thuật, ký ức, nhà trường, sự tiến bộ, những Anh sáng, quyền các dân tộc, tuổi thơ... rồi năng lượng sức mạnh của cách viết đảo lộn mọi thể loại của Hugo, tuổi thanh xuân chói lòa và vĩnh cửu của tác phẩm của ông, hàng trăm bức họa đầy tài năng của ông.
Hugo mãi mãi là ngọn hải đăng chói lòa nhất và là một trong những khuôn mặt kỳ vĩ nhất của văn học Pháp và văn học thế giới.

Nước Pháp và thế giới đang tưởng niệm Hugo 200 tuổi với tinh thần như thế: Hugo với tương lai hành tinh chúng ta.
Huế, 26/2/2002
B.N

(nguồn: TCSH số 157 - 03 - 2002)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H