Victor Hugo - đại dương và ngọn hải đăng

16:19 12/08/2008
BỬU NAM            Kỷ niệm 200 năm ngày sinh của văn hào Victor Hugo (1802 - 2002)1. Người ta thường gọi Hugo là “con người đại dương”. Bởi sự vĩ đại của tư tưởng và sự mệnh mông của tình cảm của ông đối với nhân dân và nhân loại, bởi sự nghiệp đồ sộ của ông bao hàm mọi thể loại văn học và phi văn học; bởi sự đa dạng của những tài năng của ông in dấu ấn trong mọi lĩnh vực hơn hai thế kỷ qua trong nền văn học và văn hóa Pháp. Đến độ có nhà nghiên cứu cho rằng: Tất cả những vấn đề lớn của nhân loại đều hàm chứa trong các tác phẩm của Hugo như “tất cả được lồng vào tất cả”.

 Hugo đã bộc bạch: “Tôi ưa thích đôi điều ở tất cả mọi sự, hơn là tất cả mọi sự ở đôi điều” (Truyền kỳ các thế kỷ, đoạn viết năm 1860). Ý của ông muốn diễn tả qua cách phương thức tương phản và chơi chữ ở đây là sự quan tâm có tính chất bách khoa của ông, sự chú tâm hiếu kỳ của ông đối với tất cả mọi lĩnh vực cuộc sống, vũ trụ, con người hơn là chỉ đào sâu đến cùng tận, đến tất cả một vài điều. Hoặc ông còn viết: “Tâm hồn pha lê của tôi được Chúa đặt giữa lòng vạn vật, nó là tiếng dội vang của mọi sự” (Mặc Tưởng), hay “Thơ phải đi hẳn vào đáy sâu của cuộc sống, cộng tác với nó, lấy ở nó động lực và sự tồn tại”. Thơ hay nói rộng ra văn chương phải thể hiện “khuôn mặt đơn nhất và muôn hình, u ám và rực rỡ, định mệnh và thiêng liêng: đó là Con Người”, “Sự hiện hữu của con người, khởi nguồn từ sự bí ẩn của nôi ru đến sự bí ẩn của quan tài, đó là tâm linh đang bước đi”.
2. Tuy nhiên sự vĩ đại đó còn ở chỗ cảm quan nghệ thuật về con người của ông gắn chặt với sự tiến bộ và nhân dân. “Tiến bộ là sợi chỉ... Sợi chỉ lớn lao, bí ẩn xuyên suốt đường đi lắt léo như mê cung của nhân loại”, (Truyền kỳ các thế kỷ) “Nghệ thuật là ánh sáng đất trời rạng ngời trên vầng trán nhân dân, như ngàn sao lấp lánh trên trán Người, Thượng đế”, (...) “Nghệ thuật, người biến nhân dân nô lệ thành tự do, người biến nhân dân tự do thành vĩ đại” (Nghệ thuật với nhân dân, 7-11-1851),” Những ai suy tưởng là kẻ chiến đấu”... Nhà thơ là người chiến đấu chống bất công, áp bức “Ta sẽ đến, ngời ngời ánh sáng, với công lý trong lòng, roi ở trong tay, quất tung những lời thơ uất hận”.
Dostoievski là người hiểu tư tưởng nghệ thuật của Hugo một cách sâu sắc khi ông viết: “Tư tưởng của Victor Hugo là tư tưởng cơ bản của toàn bộ nghệ thuật thế kỷ XIX và ông là người đầu tiên phát ngôn cho tư tưởng đó... định thức của tư tưởng đó là: phục sinh con người đã chết, đã bị đè bẹp hết sức bất công dưới ách áp bức của hoàn cảnh xã hội, của tình trạng trì trệ bao thế kỷ và những định kiến xã hội. Tư tưởng đó là: Sự biện bộ cho những người bị chà đạp  và những kẻ khốn cùng bị xã hội ruồng bỏ...Victor Hugo hầu như người phát ngôn chủ yếu, đầu tiên của tư tưởng phục sinh đó trong văn chương của thế kỷ chúng ta. Ít nhất ông là người đầu tiên tuyên bố nó với sức mạnh nghệ thuật trong tác phẩm (Dostoievski toàn tập, nxb khoa học, 1972-1976, trang 525-526, bản tiếng Nga).
3. Quan điểm nghệ thuật tiến bộ đó được bộc lộ một cách độc đáo: “Lĩnh vực thơ ca không có bờ bến. Phải, phía trên thế giới thực, còn có một thế giới lý tưởng rực sang dưới mắt những ai nhờ suy tưởng mà nhìn thấy trong sự vật một cái gì cao hơn chính sự vật” (Hugo,lời tựa Đoản Thi và Thơ ca khác, 1822)
Sự độc đáo đó còn nhờ trí tưởng tượng và liên tưởng kỳ lạ phú bẩm của Hugo, như một nhà  nghiên cứu khác đã viết: “Hugo hình như thấy một cách rõ ràng với những đường nét chính xác và những màu sắc thực cái mà ông tưởng tượng nên. Và hình ảnh đó nhập làm một, hữu cơ với những ý niệm, tâm trạng mà ông muốn biểu hiện... (...) ông hòa nhập sự liên tưởng qua từ ngữ và âm vận vào những liên tưởng dựa trên cấu trúc diễn luận (...) một năng khiếu hình dung mạnh đến mức không hề có một sự rời rạc nào...”
Trên hết, còn nhờ tài năng sử dụng ngôn ngữ điêu luyện đến mức như là nhà phù thủy của ngôn từ, như nhà thơ Baudelaire đã ngợi ca rất hay: “Tôi thấy trong Kinh Thánh có một nhà dự ngôn mà Chúa đã ra lệnh ăn một cuốn sách. Tôi không rõ, trước đây, ở thế giới nào, Hugo đã ăn được một cuốn tự điển về cái ngôn ngữ mà ông phải nói lúc chào đời, nhưng tôi thấy ngôn từ Pháp khi ra khỏi miệng ông đã biến thành một thế giới, một vũ trụ đầy màu sắc, du dương và sống động” hay nói như Eli Faure, một nhà viết lịch sử nghệ thuật Pháp “ Toàn bộ bề mặt nứt ra, nhung nhúc và cựa quậy trong thơ Hugo”. Hugo thường biểu hiện những tình cảm phổ biến của con người bình thường với những từ ngữ của cuộc sống hằng ngày (...). Bên cạnh yếu tố hằng ngày, chất văn xuôi bình dị bao giờ cũng có một chất trữ tình bay bỗng, một  liên tưởng sâu xa tới cái gì còn bí mật, u uẩn của đời sống, có khi còn vượt xa hẳn cuộc sống(Đặng Thị Hạnh).

4. “Đại dương“ không chỉ là sự rộng lớn, mênh mông, kỳ vĩ mà nó còn là sự bí ẩn chưa có thể dò tới. Sáng tác của Hugo gợi mở những chân trời vô tận ở bình diện xã hội - lịch sử, cũng như bình diện “cái bên kia” “Phía mà con người linh giác rùng mình, ghê sợ và kinh hãi trước những thực tại và điều bí ẩn của vũ trụ (Jean Massin, lời tựa toàn tập Victor Hugo)
 Georges Piroué nhận xét: “V.Hugo không bằng lòng với việc sử dụng tiểu thuyết để soi sáng một thời điểm lịch sử mà còn để vượt lên bên trên nó... nối kết với lãnh vực truyền thuyết của kinh nghiệm nhân sinh (...) tạo nên một huyền thoại siêu hình và đạo đức, tính chất của một niềm tin(...) Tiểu thuyết của ông mở ra một cuộc du hành vào cái vô tận lớn, với kích thước khổng lồ của kính viễn vọng”.
...Nhân vật của tiểu thuyết Hugo thường mang dáng dấp một bán thần hoặc các vị thần trong một phút đột biến nào đó. Chúng được biểu hiện bằng phương thức anh hùng ca:... Cái thiện có gương mặt xấu xí ở đó và cái dễ ưa bên ngoài lại mang mùi thối rữa. Những kẻ lớn là bé ở đó và chiến công thành ra bại trận. Những tương phản thu hút nhau ở đó và nếu chúng kết hợp, thì chúng chỉ có thể là một lưỡng thể nghịch lý (...) Ở đây, bình diện hữu hình kết hợp với bình diện siêu hình, cái có thể thấy được kết hợp với cái không thể biết được ở trong nhân vật, cái ở dưới thấp mời gọi cái bên kia (Victor Hugo, Nhà viết tiểu thuyết hay những cõi bên trên của cái chưa biết, Nhà xuất bản Denoel, 1985). Còn Pierre Albouy cho rằng “Tâm lý học của Hugo có tính chất vũ trụ và huyền thoại”, “Mỹ học chi phối việc xây dựng các nhân vật là mỹ học của sự tương phản và đảo nghịch”, các nhân vật được phân bố theo liều lượng giữa ánh sáng và bóng tối, ở “đáy tối tăm” và “đỉnh ánh sáng” (Tập san Europe, số 3-4, năm 1962).
5. Hugo để lại một di sản đồ sộ, gần 18 tập, nhà xuất bản Câu lạc bộ sách Pháp, 1967-1970, và 15 tập, nhà xuất bản Robert Laffont, Coll, Bouquins, gần 17.500 trang khổ lớn, xuất bản năm 1985-1990, tái bản năm 2002, do 2 nhà chuyên gia Jacques Seebacher và Guy Rosa chú giải. Bộ này gồm 4 tập lớn về thơ với hơn 5000 trang, bao gồm hơn 20 tác phẩm thơ, gần 154.000 câu thơ, trong đó bộ anh hùng ca huyền thoại “Truyền kỳ các thế kỷ” hơn 1000 trang, 3 tập lớn về tiểu thuyết với 9 tác phẩm, 4500 trang, 2 tập lớn về kịch trên 2500 trang, gồm hơn 12 vở kịch, 1 tập các bài viết về chính trị 1500 trang, một tập về các bút ký về lịch sử: 1500 trang, 1 tập về phê bình, trên 1000 trang, một tập viết về “du hành” trên 1000 trang, một tập bút ký về biển, đại dương trên 1000 trang, một tập viết các đề tài khác nhau như: giáo dục, tôn giáo, triết học trên 1000 trang... Toàn bộ các tác phẩm này được xem như một bản anh hùng ca Ôđítxê kỳ lạ, khác thường, mời gọi thám hiểm một thế giới kỳ vĩ thực, mộng, linh giác thấu trị, tiên tri hòa lẫn vào nhau. Đó là chưa kể hàng ngàn bức thư Hugo viết cho Juliette Drouet, người tình vĩnh cửu và như là người vợ thứ hai của ông trong vòng 50 năm mà nhà xuất bản Fayard ấn hành năm nay.
6. Sự nghiệp Hugo đồ sộ như vậy, bởi theo Jean-Marc Hovasse - nhà viết tiểu sử mới nhất năm 2002 về Hugo: “Hugo có tham vọng chiếm vị trí hàng đầu trong mọi thể loại và mọi lĩnh vực. Bằng nghị lực phi thường và sự lao động miệt mài, thường xuyên, ông đã hầu như đạt được mục đích mà ông đã đặt ra. Sức mạnh làm việc của ông thật đáng kể, nhưng cường độ làm việc đều đặn mỗi ngày thật khó tin. Ông có khả năng hoàn thành một vở kịch trong vòng 15 đến 20 ngày, với một hệ thống khá kỳ diệu: ngày hôm nay viết gấp đôi ngày hôm qua; khởi đầu một tác phẩm, ông viết 5 câu thơ, hôm sau 10 câu, hôm sau nữa 20 câu, rồi 40 câu, 80 câu, 160 câu, và 300 câu thơ mỗi ngày vào cuối tuần. Ông như chìm sâu trong một trạng thái thứ hai khi viết kịch. Tiểu thuyết “Nhà thờ Đức Bà Paris” được viết cùng tốc độ, nhưng sự thúc bách của nhà xuất bản”.
Trong cuộc đời sáng tác của ông, có nhiều năm ông cho xuất bản 2 hoặc ba tác phẩm với các thể loại khác nhau như năm 1826 (1 tiểu thuyết, 1 tập thơ), 1827 (1 vở kịch, 1 tập thơ), năm 1829 (1 tập thơ, 1 tập kịch, 1 tiểu thuyết), năm 1831 (Tiểu thuyết Nhà thờ Đức Bà Paris và 1 tập thơ...)....
7. Hugo còn xem sứ mệnh của nhà thơ là cầm bó đuốc sáng dẫn đường cho nhân loại từ cõi tối tăm đến ngày mai sáng lạn”. Thơ, văn, bút ký, diễn văn của ông đầy chất tiên tri.
Và ngày nay, những lời tiên tri của ông đã được chứng nghiệm sự đúng đắn và sự chính xác kỳ lạ (Pierre-Marc de Biasi).
Ngay từ thế kỷ XIX, văn hào vĩ đại Nga Lép Tônxtôi đã nhận xét: Hugo là một nhà tiểu thuyết đứng trên thế kỷ của mình như mẫu mực của ý thức nghệ thuật và ý thức đạo đức hết sức cao cả (Tônxtôix toàn tập, bản tiếng Anh, tập XXIII, trang 299-300, 1904).
Hugo vừa chú trọng đến những vấn đề trọng đại của thời đại mình vừa hướng đến tương lai như ý kiến của Claude Duchet, sử gia lịch sử văn hóa Pháp: “Ngay cả khi tự nguyện sẽ phóng chiếu mình vượt qua khỏi thế kỷ XIX, Hugo đã đảm trách toàn bộ thế kỷ của ông, bao hàm cả cách mạng, cũng như chân lý, lương tri và lẽ phải của Lịch sử” (Tạp chí Lire, tháng 1/2002).
Còn nhà nghiên cứu M.Pierre-Marc de Biasi, người phụ trách số kỷ niệm về V.Hugo của Nguyệt san văn học Lire của Pháp thì cho rằng “Hugo là sứ giả của tương lai chúng ta, ông hướng dẫn nó”. Và cụm bài viết của tạp chí Lire này tập trung khảo sát di sản Hugo trong chiều hướng đó, với hàng loạt vấn đề: nền Cộng hòa, tính thế giới phổ quát, kỹ thuật, ký ức, nhà trường, sự tiến bộ, những Anh sáng, quyền các dân tộc, tuổi thơ... rồi năng lượng sức mạnh của cách viết đảo lộn mọi thể loại của Hugo, tuổi thanh xuân chói lòa và vĩnh cửu của tác phẩm của ông, hàng trăm bức họa đầy tài năng của ông.
Hugo mãi mãi là ngọn hải đăng chói lòa nhất và là một trong những khuôn mặt kỳ vĩ nhất của văn học Pháp và văn học thế giới.

Nước Pháp và thế giới đang tưởng niệm Hugo 200 tuổi với tinh thần như thế: Hugo với tương lai hành tinh chúng ta.
Huế, 26/2/2002
B.N

(nguồn: TCSH số 157 - 03 - 2002)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học là cuộc sống. Quan niệm như vậy là chẳng cần phải nói gì thêm cho sâu sắc để rồi cứ sống, cứ viết, cứ đọc và xa dần mãi bản thân văn học.

  • LTS: Cuộc tranh luận giữa hai luồng ý kiến về nhân vật lịch sử Nguyễn Hiển Dĩnh, một mệnh quan triều đình Huế có công hay có tội vẫn chưa thuyết phục được nhau.Vấn đề này, Tòa soạn chúng tôi cũng chỉ biết... nhờ ông Khổng Tử "Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri giả" (biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, ấy là biết). Vậy nên bài viết sau đây của nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Nguyễn Đắc Xuân, chúng tôi xin đăng nguyên văn, tác giả phải gánh trọn trách nhiệm về độ chính xác, về tính khoa học của văn bản.Mong các nhà nghiên cứu, cùng bạn đọc quan tâm tham gia trao đổi tiếp.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNăm 1998, Thành phố Đà Nẵng dự định lấy tên nhà soạn tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh đặt cho con đường mới song song với đường 2 tháng 9 và đường Núi Thành. Nhưng sau đó qua một số tin bài của tôi đăng trên báo Lao Động nêu lên những điểm chưa rõ ràng trong tiểu sử của ông Nguyễn Hiển Dĩnh, UBND Thành phố Đà Nẵng thấy có một cái gì chưa ổn trong tiểu sử của Nguyễn Hiển Dĩnh nên đã thống nhất rút tên ông ra khỏi danh sách danh nhân dùng để đặt tên đường phố lần ấy. Như thế mọi việc đã tạm ổn.

  • Vừa qua nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân có viết một loạt bài về ông Nguyễn Hiển Dĩnh - một quan lại triều nguyễn, nhà soạn tuồng nổi tiếng Quảng Nam. Qua thư tịch, anh chứng minh Nguyễn Hiển Dĩnh tuy có đóng góp cho nghệ thuật tuồng cổ nhưng những hành vi tiếp tay cho Pháp đàn áp các phong trào yêu nước ở Quảng Nam quá nặng nề nên không thể tôn xưng Nguyễn Hiển Dĩnh là danh nhân văn hoá của việt Nam như Viện Sân khấu và ngành văn hoá ở Quảng Nam Đà Nẵng đã làm. Qua các bài viết của Nguyễn Đắc Xuân có những vấn đề lâu nay ngành văn hoá lịch sử chưa chú ý đến. nhà báo Bùi Ngọc Quỳnh đã có cuộc đối thoại lý thú với anh về những vấn đề nầy.

  • ĐỖ NGỌC YÊNVào những năm 70 của thế kỷ, ở nhiều nước phương Tây tràn ngập không khí của cuộc khủng hoảng gia đình, làm cho nhiều người rất lo ngại. Một số kẻ cực đoan chủ trương xóa bỏ hình mẫu gia đình truyền thống. Nhưng cái khó đối với họ không phải là việc từ bỏ hình mẫu gia đình cũ - mặc dù trên thực tế việc làm đó không phải dễ - mà vấn đề đâu là hình mẫu gia đình mới.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH             Phóng sự điều tra

  • THỦY THANHLâu nay, "quả lắc" vì sự trong sáng tiếng Việt dường như đã trì vào điểm chết của dây dọi. Những mặc cảm, thành kiến hoặc dị ứng về sự "ga lăng ngôn ngữ" trước áp lực của thời đại tin học cũng chững lại như một thái độ thăm dò. Suy cho cùng thì ngôn ngữ cũng có đời sống riêng và nó bao gồm cả thể vía lẫn thể xác. Nó cũng "hữu sinh tất hữu diệt" trong luật tiến hóa và đào thải như nhiên. Ngôn ngữ nói chung là một phương pháp hệ thống hóa và tích lũy tri thức theo sự diễn tiến về mặt lịch đại và sự tiệm tiến về mặt đồng đại.

  • Các lý thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung tối quan trọng không thể chối cãi: tác phẩm văn học là một hiện tượng sử dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau.

  • Viết là một công việc bất hạnh. Một trong những yếu tố gây khốn khổ cho nhà văn là cốt truyện. Cốt truyện là “ông ngoáo ộp” dọa dẫm người cầm bút và cũng là nguyên nhân chung dẫn đến sự bế tắc của họ trong quá trình triển khai tác phẩm.

  • Trên thế giới, ít có loài hoa nào ra đời sớm, phổ biến với nhiều biểu trưng cao quý như hoa sen. Dáng hình đẹp, màu sắc trang nhã, hương thơm thùy mị, thanh khiết, không nhiễm bẩn... chừng ấy đức tính tốt đẹp đã đưa hoa sen thành biểu trưng cao quý của đạo Phật.

  • TRẦN ĐƯƠNGGoethe (1749-1832) hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào ông cũng thâu tóm những tri thức đồ sộ, cũng đạt được những thành tựu xuất sắc. Tên tuổi ông trở thành niềm tự hào của cả dân tộc, được Các Mác gọi là người Đức vĩ đại nhất”.

  • AN CHÍNHCó lẽ Hồng Nguyên là một trong những nhà thơ rất thành công về việc dùng "tiếng địa phương trong thơ của mình.

  • Flier Andrei Jakovlevich(Tiến sĩ triết học, nhà văn hóa học của Nga)

  • HOÀNG NGỌC HIẾN    (Đọc "Văn hóa chính trị - truyền thống và hiện đại" (1) của Nguyễn Hồng Phong)Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX06 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm(2). Lịch sử những quá trình hiện đại hóa ở Việt Nam từ cuối t.k.XIX đến nay là một chủ đề quan trọng của công trình.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHThực trạng của phê bình nghệ thuật hiện nay đang là một câu hỏi cần phải được trả lời.

  • THỦY THANHCuộc thi thơ dành cho người tàn tật ở Thừa Thiên Huế mặc dù "thời gian ứng thí" chưa đầy 2 tháng nhưng đã thu được kết quả đáng khích lệ. Với 33 tác phẩm của 7 tác giả nghiệp dư mang khuyết tật trên mình nhưng mỗi con người trong họ vẫn là "một thế giới một tâm hồn" lành lặn.

  • HOÀNG TẤT THẮNGMột trong những đặc điểm đặc thù của tiếng Việt là: các danh từ chỉ sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất... không phải luôn chỉ đứng một mình mà thường kết hợp với một từ đứng trước với chức năng phân loại, chỉ đơn vị, biểu thái... trong lời nói. Chẳng hạn, sự vật thuyền trong tiếng Việt không phải chỉ có từ "thuyền" mà còn có "cái thuyền", "chiếc thuyền", "con thuyền", "lá thuyền", "mảnh thuyền"... các từ "cái - chiếc - con - lá - mảnh..." thường gọi là từ chỉ loại (hay là loại từ).

  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học thời đại nào cũng là sự du di cái nhìn thấm sâu vào đời sống. Thơ văn nói tới cái thật xa, rồi lại trở về với cái thật gần. Muốn đi xa, hành trang thơ phải gọn nhẹ, nhẹ chữ nhưng nặng lòng. Thơ Thiền là vậy. Mỗi câu thơ như một mũi tên bay vào tưởng tượng. Giữa những dòng thơ Thiền là một cõi chân như, vượt ra ngoài định giới môi trường xã hội quen thuộc, vì thế thơ Thiền thênh thang hướng đạo nhằm mục đích cứu sinh, đưa con người trở về với chính nó.

  • LÊ ĐẠT                Đường bụi trang lịch cũ                 ếp ếp đàn thời gian                                           L.Đ

  • HOÀNG NGỌC HIẾN             (góp phần định nghĩa minh triết)Tôi bắt đầu tiểu luận này bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề minh triết của hai học giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914- 1997).