Vị mặn nước mắt

09:11 07/09/2009
NGUYỄN TRƯỜNGThấy tôi ngồi chăm chú đọc thư, miệng cứ tủm tỉm cười, vợ tôi mới giả giọng, hỏi đùa:- Có việc chi thích thú mà cười một chắc rứa?- Có chuyện vui bất ngờ đấy em ạ! - Tôi vừa trả lời vừa kéo tay vợ ngồi xuống, rồi đọc lại một mạch toàn văn bốn trang thư của ba tôi từ Huế mới gửi vào.

Minh họa: Ngô Lan Hương

Nghe xong, vợ tôi cười ngặt nghẽo:

- Nom chẳng khác bụt mà cũng si như ai!... Mà đã thế thì sắp xếp ra gấp để lo cho ba thật đàng hoàng mới được!

Phải rồi. Đất có lề, quê có thói. Chắc ông cụ cũng đã tường. Nhưng tôi biết, sau khi rời quân ngũ trở về với đời thường, mọi việc lễ nghĩa ông hay đơn giản hoá. Nghĩ tới đây, tự nhiên tôi thấy có cái gì thôi thúc phải về Huế ngay, không để chậm trễ.

Lúc này, vợ và các con tôi đang kỳ nghỉ hè. Lòng tôi nôn nao. Không ngờ chuyện tôi trao đổi với ba tôi hôm nào, giờ “gạo đã thành cơm” thế kia. Thư ba tôi hơi dài dòng, trong đó ông cứ lặp đi lặp lại: “Vì hoàn cảnh của con, nên ba đành...;” “Vì nghe lời con, mà ba phải...”. Ừ, thì cho là vậy. Con cái trưởng thành khéo “sắp đặt” cho ba mẹ thì cha mẹ nào lại đành ngoảnh mặt làm ngơ. Thế nhưng, giờ mới biết tỏng bụng dạ ông cụ nhà tôi: một khi cái “sóng” kia chưa đủ độ “xiêu xiêu” thì dẫu có nói ngon nói ngọt mấy cũng khó lay chuyển nổi ông.


Ba mẹ tôi, chỉ sinh có mình tôi. Năm tôi đang học tiểu học thì mẹ tôi lâm chung. Có lẽ vì xót nghĩa phu thê đầu âp tay gối mà ba tôi ở vậy làm thân “gà trống nuôi con” từ bấy đến giờ. Sau ngày tốt nghiệp đại học ngành lâm sinh, tôi lên nhận công tác ở một lâm trường trên Tây Nguyên thì cũng là lúc ba tôi đến tuổi nghỉ hưu.

Năm tháng trôi qua giữa núi rừng mênh mông trùng điệp với toàn là những chàng sinh viên non tơ lần lượt ra trường đến đây nhận việc, làm tôi đâm nản. Thế nhưng, ở chốn thâm sơn cùng cốc này tìm đâu ra những cô gái bắt mắt ưa nhìn để mà không nản với có nản? Nỗi khát khao về một bóng hồng có chăng cũng chỉ thoáng hiện trong giấc mơ thôi. Thế mà không ngờ hôm đó, trong một chuyến đi khảo sát rừng nguyên sinh ở Kon-Tum, tình cờ tôi gặp Lành, một cô giáo dạy trường huyện. Qua tìm hiểu, tôi biết Lành mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được ông bà ngoại nuôi cho ăn học đàng hoàng. Lành có dáng người nhỏ nhắn, hiền thục với đôi mắt lúc nào cũng u u buồn buồn như đang giấu kín điều gì bí ẩn trong tâm hồn. Chính đôi mắt ấy đã hút hồn tôi, làm chân tôi bước đi không đành. Tôi bám riết, bắt chuyện làm quen. Tôi kết thân kết nghĩa, rồi bén duyên nhau lúc nào không biết. Sau này được hai nhà ưng ý, chúng tôi cưới nhau. Chẳng bao lâu tậu được nhà cửa, sinh con đẻ cái và “chim đậu đất lành” ở đây luôn. Ý định lúc đầu là xin chuyển vùng, đem vợ con về Huế để cha con có nhau, nay xem ra quá xa vời...

Thương ba tôi một đời trong quân ngũ, nay về hưu sống lủi thủi một mình, vợ chồng tôi cứ nằng nặc mời ông vào ở với con, với cháu. Nhưng nói gì ông cũng đánh bài lờ. Ông viện đủ cớ để khước: “Ba già rồi, sống chết ở quê mình thôi, chẳng muốn đi đâu hết!”; “Sống ở đây có bà con họ mạc, có đồng chí đồng đội một thời với nhau. Bỏ mà đi sao đành hả con!”... Xem chừng khó bề lung lạc, một hôm, Lành bàn với tôi: “Người ta hay nói “con nuôi cha không bằng bà nuôi ông”, hay là anh về ngoài xem có bà nào...”.Tôi cứ mãi suy tính, ngẫm nghĩ thiệt hơn.

Hè năm ngoái, tôi ra Huế đem chuyện “hệ trọng” kia nói với ông cụ. Nghe chưa hết lời, với nét mặt nghiêm nghị vốn có của một sĩ quan quân đội từng chỉ huy, ông lắc lắc cái đầu, nói như đinh đóng cột: “Con chớ lo, vô ích. Ba ở một chắc quen rồi!”. “Trời ơi, chớ lo sao được hả ba! Nay còn khoẻ, ba nói sao chẳng được. Đến hồi cái già, cái yếu kèm theo đủ thứ bệnh tật mà tới một lúc, trong khi con cháu ở xa, ba tính sao?”. Tôi dùng đủ lý đủ tình, nhưng ông vẫn bỏ ngoài tai. Ông còn biện bạch là ưng ở một chắc cho khoẻ cái thân, muốn làm gì, muốn đi đâu, tuỳ thích. Thêm người thêm vướng. Ông càng nói tỉnh bơ thì tôi càng nghi nghi hoặc hoặc. Biết đâu đó chỉ là cách nói, còn cái bụng lại khác thì sao? Phải chăng vì “nơi nên không có, nơi có không nên” mà ông mãi chịu cô đơn như thế này?...

Cũng dịp hè năm ấy, tôi về thăm quê ngoại ở làng Lương. Lâu ngày gặp lại các cậu, các dì, ai cũng mừng mừng tủi tủi cho tôi, ai cũng hỏi thăm ba tôi. Hiểu hết hoàn cảnh của hai cha con nên mọi người đều nhắn nhủ, hối thúc ba tôi nên tìm bạn đời để nương tựa nhau lúc tối lửa tắt đèn. Hôm đó dì Tư tôi tỏ ra sốt sắng hơn ai hết: “Hay là cháu đem chuyện bà Cam ở đây nói với ba cháu thử coi?”. Ngẫm nghĩ một lúc, tự dưng tôi bỗng thấy lời dì Tư gợi ý thế mà đâm hay. Ai chứ bà Cam thì tôi xa lạ gì. Hồi xưa, bà Cam thuộc gái đẹp của làng Lương này, lại có quan hệ bà con xa với bên ngoại tôi. Nghe đâu hồi còn tuổi thanh niên, ba tôi cũng có lần rắp rem “bắn sẻ” nhà bà. Chuyện chẳng biết thế nào mà sau đó ba tôi lại quay sang kết duyên với mẹ tôi. Tuổi thơ ấu theo mẹ về quê ngoại, tôi thích đến chơi nhà bà. Bà rất thương trẻ con. Vườn nhà bà có nhiều trái cây, mỗi lần sang chơi, bà thường hái cho làm tôi cứ nhớ mãi.


Nghe theo lời dì Tư, tôi đem chuyện bà Cam về kể với ba tôi. Đến lúc tôi ghé tai ông nói ngọt: “Bà ấy vẫn ở một chắc. Hay là “hai chắc” ấy về ở với nhau cho vui nhà vui cửa. Ba thấy thế nào?”, thì ông lặng thinh, chẳng nói thêm nửa lời, nhưng không hiểu sao tôi thấy ánh mắt ông có cái gì hơi khang khác. Tôi bèn nửa đùa, nửa thật: “Im lặng là đồng ý đấy nha!”.

Hôm sau, tôi quay trở lại làng ngoại, tìm đến nhà bà Cam. Bẵng đi một thời gian khá lâu, nay gặp lại bà, tôi không khỏi ngỡ ngàng. Bà Cam có mẫu người thanh thanh với khuôn mặt sáng láng, phúc hậu và đôi môi như lúc nào cũng nở một nụ cười thân thiện với mọi người, làm cho người ta dễ đoán những điều hạnh phúc, may mắn sẽ đến với con người này hơn là những rủi ro, bất hạnh. Cứ trông dáng người nhanh nhẹn, tóc chưa hề có một sợi bạc và cách ăn nói duyên dáng của bà thì ai có thể ngờ nổi, bà đang sắp sửa bước qua ngưỡng cửa lục tuần. Bà nhìn tôi bằng đôi mắt ngờ ngợ. Nếu như tôi không tự khai rõ ngọn nguồn của mình, chắc bà cũng khó nhận ra. Bà xởi lởi pha trà, rồi đon đả quay ra sau vườn hái mấy quả ổi mời tôi như hồi nào.

Ngày trước, bà Cam sống hạnh phúc với chồng con. Thế rồi chiến tranh xảy ra. Trong cuộc chạy loạn mùa hè năm 1972 ở Quảng Trị, chồng bà chết vì bom đạn dọc đường, còn đứa con gái duy nhất vừa tròn một tuổi của bà bị thất lạc, cho đến nay chẳng biết sống chết nơi đâu. Bà cứ xót xa đứt gan, đứt ruột mỗi lần nhớ đến con, đến chồng. Sau cái ngày tang tóc ấy, bà Cam thất thểu về sống an phận và làm ăn buôn bán ở làng Lương. Mấy năm nay bà vẫn thường nhắn tìm con trên đài, trên báo, nhưng chẳng có hồi âm nào. Bà chỉ còn cầu trời khấn Phật ngày đêm sao cho đứa con gái bé bỏng, tội nghiệp ngày xưa tìm về được với bà thì chẳng có hạnh phúc nào bằng.

Ngồi nói chuyện với bà, nhân lúc bà hỏi thăm về gia đình tôi, tôi mới đem chuyện ba tôi ra kể. Tôi nói xa nói gần, rồi mạnh dạn nói thẳng không chút do dự là mong bà thuận lòng “kết bạn” với ba tôi. Tôi đem so cảnh ngộ giống nhau giữa bà Cam với ba tôi. Tôi thao thao về tính cách điềm đạm cùng nết ăn ở của ba tôi với mọi người. Tôi rạch ròi về hoàn cảnh của ba tôi nếu ông bước đi bước nữa. Vân vân và vân vân. Bà Cam ngồi lắng nghe với vẻ mặt tỉnh khô, lâu lâu chỉ mỉm cười mà chẳng nói lại một lời nào. Nhiều lúc tôi cố gợi ý để bà vào chuyện, nhưng bà một mực im lặng, khiến tôi vô cùng áy náy. Cuối câu chuyện, tôi tỏ ra nhã nhặn, cúi đầu xin lỗi bà về sự hơi “quá lời” vừa rồi. Xong, tôi xin cáo từ với cái tâm trạng giống hệt thời trai trẻ của mình khi đi tỏ tình mà bị người ta từ chối vậy.

Mấy hôm sau, tôi từ giã ba tôi để trở vào Tây Nguyên mà lòng cứ day dứt không yên. Nhiều đêm khó ngủ, nghĩ đến tuổi già một mình một bóng của ông cụ mà nước mắt tôi tràn mi.


Thấm thoắt thế mà đã một năm tôi không về Huế. Không ngờ nay đọc thư ông, tôi nóng bừng cả người. Ông viết nắn nót suốt mấy trang giấy kể chuyện ông tìm về quê ngoại thăm bà Cam, và bà Cam cũng nhiều lần vô Huế thăm ông. Sau tết Nguyên Đán vừa rồi, ông về làng Lương đưa bà Cam vô  Huế đi du xuân khắp thành phố. Kể từ đó trở đi, hễ lúc nào nhớ tới bà Cam là ông lại vù về làng Lương. Chưa hết, ông còn cho biết cách đây một tháng, bà Cam ghé nhà, gặp lúc ông cảm sốt, thế là bà ở lại săn sóc ông dài dài. Ôi chao! Ghê quá! Té ra lặng lặng với nhau như rứa mà con cái chừ ông mới cho hay!

Sau khi bàn bạc kỹ với vợ, tôi vừa điện thoại, vừa viết thư cho ông. Trong thư, tôi cặn kẽ mọi điều cho cái ngày cả nhà ra Huế và muốn mở tiệc hoa mừng “ngày vui” của hai ông bà.

Ngày mong đợi ấy đã đến. Vợ con tôi ai nấy đều háo hức. Lúc bước lên xe, mặt vợ tôi rạng ngời như ánh bình minh. Bởi lẽ từ giờ trở đi, phận làm dâu của vợ tôi với gia đình chồng đã phần nào bớt lo lắng, bứt rứt, vì ông đã có bà xứng lứa vừa đôi để “nâng khăn sửa túi”.

Khi chiếc xe chở cả nhà vừa đến Huế, chúng tôi đã thấy ba tôi cùng bà Cam ra đón tận bến. Vừa bước xuống xe, tôi đã sốt dẻo giới thiệu bà Cam với vợ con. Vợ tôi tỏ ra mừng rỡ, ôm ngang lưng bà Cam, reo lên: “A! Mẹ! Ôi! Mẹ của con! Bà của các cháu đây!”. Bà Cam nở nụ cười đôn hậu, dang hai tay đón các cháu tự nhiên như bà cháu đã thân mật nhau từ lâu.

Chiều hôm sau, đúng hẹn, gia đình tôi tổ chức tiệc rượu mừng ngày hai ông bà về ăn ở với nhau. Bữa tiệc chẳng lấy gì làm thịnh soạn cho lắm, song vẫn đủ các nghi thức thường lệ. Thức ăn, thức uống được bày ra mấy dãy bàn trông cũng khá xôm. Có đông đủ bạn bè thân thích và bà con cật ruột hai bên cùng dự. Sau lời tuyên bố của vị cựu chiến binh được phân vai chủ xướng, mọi người đều đứng dậy nâng cốc chúc mừng hai ông bà cuối đời “giai lão bách niên” bên nhau. Chiếc máy ảnh của anh phó nháy lâu lâu chớp sáng làm loá mắt cánh bạn già. Những tràng pháo tay chốc chốc nổi lên khi ở đâu đó trong các bàn tiệc nghịch đùa một vài câu ngụ ngôn khôi hài mà ý tứ. Một số bài ca truyền thống như “Lời người ra đi”, “Bộ đội về làng”, “Hát mừng bộ đội chiến thắng”... được các cựu chiến binh, là bạn thân của ba tôi, thay nhau hát lên thật sâu lắng và đầy ý nghĩa. Một bác cựu chiến binh vốn nổi tiếng có “giọng ca vàng” của phường, liếc mắt nhìn ba tôi và bà Cam, miệng hát tròn vo, nhún nhẩy đong đưa diễn cảm chẳng khác gì ca sỹ chuyên nghiệp: “Thắng giặc rồi mới về làng thời hả sao a hả ghê. Ối nàng vừa đẹp lại vừa khoái sao a khoái thế!..., làm cho mọi người cười rộ lên, vui đáo để. Lành ngồi bên cạnh bà Cam chuyện trò không ngớt, thỉnh thoảng lại gắp thức ăn bỏ vào chén mời bà. Các cháu thì nhí nhảnh gọi ông nội, rồi quay sang gọi bà nội luôn miệng làm cho bà Cam không tránh khỏi cảm giác ngường ngượng với mọi người.

Đang tiệc vui tưng bừng như thế, chẳng hiểu sao bà Cam lấy khăn ra lau nước mắt. Thấy vậy, Lành mới hỏi nhỏ: “Mẹ ơi, sao đang vui, mẹ lại khóc?”. Bà Cam nhìn Lành, nói với giọng buồn buồn: “Con ạ! Nhìn con mà mẹ cứ nhớ đến đứa con gái tội nghiệp của mẹ. Nếu nó còn sống sót thì cũng chừng tuổi với con đây!”. Rồi, như sực nhớ ra điều gì, bà Cam đột ngột hỏi Lành: “Các con ở trên cao nguyên có biết ai cỡ tuổi với mẹ, nói giọng Quảng, có tên là Lý không?”. Bà chỉ hỏi vu vơ như thế, vì hồi trước, trong quan hệ làm ăn buôn bán với nhau ở Đông Hà, bà có quen thân với bà Lý và bà ấy có cho bà biết cha mẹ mình sinh sống ở cao nguyên, thế thôi. Không ngờ câu hỏi vô tình ấy của bà Cam làm cho Lành phải tròn xoe mắt: “Ối! Sao mẹ lại biết? Bà Lý mà mẹ nói chính là mẹ đẻ của con đấy mà!”. Nghe vậy, bà Cam giật thót mình, mặt mày biến sắc. Bà hỏi tiếp: “Rứa thì bà Lý chừ ở chỗ mô?” Lành ủ mặt: “Mẹ con đã mất khi con mới ba tuổi!”. Bà Cam sốt ruột, giọng trở nên run run: “Năm ni con mấy tuổi?!. “Dạ, con 33 tuổi ạ!”. Bà Cam nửa tin, nửa ngờ nắm lấy tay Lành. Đôi môi bà tái nhợt, tim đập hồi hộp, bà hỏi dồn dập những gì tiếp theo không rõ lời. Hai mắt bà chớp chớp nhìn thẳng vào đôi mắt Lành. Bà nói trong hơi thở: “Con hãy cho mẹ hỏi: Có phải nơi gần rốn con có một cái bớt son, đúng không?”. Lành gật đầu, trố mắt nhìn bà Cam đầy nỗi ngạc nhiên, chẳng hiểu chuyện gì. Không chút ngần ngại, bà Cam ôm chặt lấy Lành, đường đột thò tay vào sờ lên cái bớt son, rồi hai hàng nước mắt nóng hổi của bà chảy dài xuống đôi gò má. Bà nấc lên nghẹn ngào: “Ối trời ơi! Tội nghiệp con gái tôi! Mẹ đây mới là mẹ đẻ ra con!”. Bà choáng váng, mất thăng bằng. Bà ngập trong cái cảm giác như chết đi sống lại với đứa con gái hơn 30 năm lưu lạc nay như vừa trên trời rơi xuống, đang ngồi trước mặt bà. Bà mếu máo kể lại một mạch chuyện bà Lý ấy đã giúp bà bồng con chạy loạn năm 1972 ở Quảng Trị và sau đó, hai người đã thất lạc nhau như thế nào. Dứt lời, bà khóc oà lên, nước mắt ràn rụa. Người em gái của bà Cam ngồi gần đấy cũng khóc theo, kể lể: “Đúng là cháu tôi. Lâu ni, dì vẫn thăm hỏi khắp nơi mà chẳng ai biết tung tích cháu tôi chỗ mô cả! Thiệt như có trời xui đất khiến...!”.

Tiệc rượu đang nhậu, bỗng chốc lắng xuống. Mọi người xúm quanh hai mẹ con đang trong cơn hồi hồi, nức nở. Những cặp mắt nhìn nhau rưng rưng, không ai nói nên lời. Xúc động, nghẹn ngào bao trùm lên cuộc tiệc.

Phải đến mấy phút sau, một người bạn già của ba tôi đứng lên góp lời. Ông cố làm cho tiệc mừng trở lại không khí ban đầu bằng câu nói pha chút hóm hỉnh: “Cũng nhờ tác hợp cơ trời mà nong nia cạp lại sít sao như thế này. Và cũng nhờ phúc ấm gia đình mà mẹ gặp được con, cháu được gặp bà như hôm nay. Đây không phải là chuyện hiếm thấy đối với gia đình Việt Nam sau chiến tranh. Nhưng đây là trường hợp đặc biệt, bất ngờ và thú vị, vì một tiệc mừng bỗng dưng lại mang hai ý nghĩa lớn lao mà có lẽ không nơi nào có được. Vậy chúng ta cũng phải hai lần nâng cốc chúc mừng hai “sự kiện lớn lao” này! Dứt lời, tiếng vỗ tay kéo dài. Rượu mừng lại được rót tràn ly.

Nước mắt và nụ cười chan hoà vào nhau. Gian phòng trở nên chật hẹp bởi tiếng nói tiếng cười râm ran tưởng chừng không bao giờ dứt.

Lành gục đầu vào ngực mẹ, người mẹ đẻ mà đến chừng này tuổi đầu Lành mới biết mặt. Nỗi xót xa quặn thắt, trào dâng, khiến Lành khóc tức tưởi. Các con tôi nãy giờ đứng nhìn chẳng hiểu đầu đuôi xuôi ngược ra thế nào. Bà Cam âu yếm ôm con gái và hai cháu ngoại vào lòng. Ba tôi ngước nhìn tôi với đôi mắt ngấn nước và tôi đọc được trong ánh mắt kia cả sự thoả nguyện lâng lâng làm cho ông vô cùng hạnh phúc những năm tháng cuối đời của mình.

N.T
(186/08-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với  vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.

  • ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.

  • ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.

  • VŨ NAM TRỰC           Truyện ngắn

  • TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.

  • XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG  Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.

  • NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...

  • HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.

  • PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.

  • NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.

  • CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.

  • NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.

  • LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.

  • NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.

  • PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.

  • MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.

  • MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.

  • ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.