Về việc riêng trong di chúc của Bác Hồ cũng là việc chung của toàn Đảng, toàn dân

09:49 28/09/2009
NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.

Ảnh: namlinhle.violet.vn

Cuối bản Di chúc lịch sử Bác viết: “Về việc riêng: suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay, dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Sau khi tôi qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”.

Chỉ 79 chữ dặn lại việc riêng cuộc đời 79 mùa xuân của một con người thời đại - một anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá thế giới, đã để lại trong lòng chúng ta những nỗi niềm yêu mến, nhớ thương, tâm nguyện một lòng “theo chân Bác” trên con đường Độc lập Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội.

Bác Hồ là nhà cách mạng đã từng làm thay đổi lịch sử. Người không những tìm đường cách mạng đúng đắn và sáng tạo để giải phóng dân tộc mà còn dành trọn cuộc đời mình để trực tiếp lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi tới thắng lợi ngày nay. Công lao to lớn của Bác đối với sự nghiệp cách mạng Việt , nhân dân ta vô cùng kính yêu ca ngợi công ơn Bác: Bác Hồ là vị cha chung/ Là sao Bắc Đẩu, là vầng Thái Dương

Nhưng về việc riêng, Bác khẳng định “suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân… chỉ tiếc là tiếc không phục vụ được lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.

Trước lúc Bác ra đi, cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước ở vào chặng cuối, Bác nhận định nhân dân ta phải hy sinh nhiều của, nhiều người hơn nữa mới đi tới giành thắng lợi giải phóng miền , thống nhất đất nước. Điều Bác tiếc cũng có thể là nỗi niềm của Bác đối với miền thân yêu: Bác nhớ miền nỗi nhớ nhà/ Miền mong Bác nỗi mong cha.

Trước lúc Bác ra đi chưa đầy 2 tháng, ngày 14-7-1969 Bác đã tiếp và trả lời phỏng vấn đồng chí nữ phóng viên báo Granma (Đảng Cộng sản Cu Ba) trong đó toát lên tâm huyết của Bác: “Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi”. Khi trả lời về miền Nam, Bác nói: “Ở miền Nam Việt Nam, mỗi người, mỗi gia đình đều có nỗi đau khổ riêng và gộp nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi. Tôi nghĩ rằng tôi chưa làm trọn nghĩa vụ cách mạng của tôi đối với đồng bào miền Nam, mặc dầu như vậy, tôi biết đồng bào miền Nam vẫn yêu quý tôi cũng như tôi luôn yêu quý đồng bào. Ở miền , tôi không phải là Chủ tịch Hồ Chí Minh mà là Bác Hồ” (Hồ Chí Minh toàn tập - tập 12 NXB CTQG - Hà Nội - trang 560-561)

Thật xúc động biết bao tấm lòng của Bác đối với miền luôn “ở trong tim Bác, miền là máu của máu Việt , là thịt của thịt Việt …”. Nhân dân miền rất thiết tha ngày hội chiến thắng, “Rước Bác vào thăm thấy Bác cười”, ngày Bác ra đi, có lời thơ day dứt: Bác ơi! Con biết con chưa giỏi/ Quét sạch giặc đi, đón Bác vô.

Từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930) cho đến ngày Bác ra đi (1969) các thế hệ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ thanh niên, nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Bác đã vượt qua muôn trùng thử thách, chiến đấu, hy sinh giành thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nhiều chiến sĩ bị tù đày, trước án tử hình vẫn hô vang: Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm

Anh Nguyễn Văn Trỗi trước lúc hy sinh: Phút giây thiêng liêng anh gọi Bác ba lần.

Đồng chí đại tướng Nguyễn Chí Thanh - người con của Thừa Thiên Huế đã từng nói: “Hồ Chủ tịch đã dạy thì chúng ta phải làm đúng, làm cho kỳ được, không thể trái ý Người”. Đồng chí Hải Triều, chỉ còn hơi thở nhẹ viết chúc thư ngắn cho đồng chí Tố Hữu, nhà lãnh đạo văn nghệ của Đảng, bạn đồng hương xứ Huế, cuối thư viết: Hồ Chí Minh muôn năm Trước khi chết nhớ Bác quá.

Với trách nhiệm đảng viên, cán bộ, chiến sĩ, nhân dân hết lòng, hết sức thực hiện nhiệm vụ cách mạng, đồng thời là thể hiện tình cảm thiêng liêng đối với Bác Hồ vì: “Trong mỗi trái tim, trong mỗi ước mơ, trong mỗi cuộc đời ta luôn có Bác”.

Bác dặn lại: sau khi tôi qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân. Một con người vĩ đại trước lúc ra đi vẫn canh cánh bên lòng: nhân dân, tránh sự tốn kém cho nhân dân.

Bác ra đi “Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa”, quân dân cả nước đau thương quặn lòng. Miền Nam đang chiến đấu, cử các đoàn ra Hà Nội chịu tang Bác, đồng bào nông thôn đồng bằng, miền núi ở miền Bắc mang lễ vật lên Ba Đình cúng Bác.

Vùng tạm chiếm miền nhân dân và một số người của chính quyền Sài Gòn tìm cách cầu siêu, để tang, lập đền thờ Bác. Ở miền Bắc, rất nhiều gia đình treo ảnh chân dung Bác trên bàn thờ, thờ Bác cùng với tổ tiên mình. Hương khói cho tổ tiên cũng là hương khói cho Bác. Bác là lãnh tụ cũng là tổ tiên mỗi nhà, vì: Bác ơi! Tim Bác mênh mông thế/ Ôm cả non sông mọi kiếp người.

Di chúc về việc riêng, thực ra đó là việc chung về phụng sự tổ quốc, nhân dân và phần đầu di chúc về Đảng, về Đoàn Thanh niên về nhân dân nhưng đó cũng là tư cách cá nhân lãnh tụ dặn lại việc chung. Ở trong Bác: Nâng niu tất cả chỉ quên mình

79 chữ di chúc về việc riêng cho ta tình cảm ấm áp, thương mến, tin tưởng vào con đường Đảng, Bác, nhân dân ta đã lựa chọn, toát lên hai lời thề chủ yếu khi chúng ta vào Đảng:

- Suốt đời hy sinh phấn đấu vì sự nghiệp cách mạng của Đảng

- Luôn luôn đặt lợi ích của Đảng, của giai cấp, dân tộc lên trên hết.

Ngày nay trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng ta thực hiện đường lối đổi mới, tiến tới thực hiện trọn vẹn ham muốn tột bậc của Bác Hồ: “Làm sao cho nước ta được độc lập, nhân dân ta hoàn toàn tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.

Trong quá trình phát triển và hội nhập, có vận hội và thách thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng các tổ chức, địa phương, cán bộ chiến sĩ đảng viên và nhân dân ta đang phấn đấu thực hiện di chúc của Bác Hồ vì sự nghiệp CNH-HĐH, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là tình cảm, nghĩa vụ thiêng liêng là niềm tự hào của nhân dân ta về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

Bản di chúc có sức sống mãnh liệt trên phạm vi thế giới. Nhiều nhà lãnh đạo của các nước trên thế giới đã cho rằng: “Lời di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh không những là dành cho nhân dân Việt Nam mà cho tất cả các dân tộc”  Hoặc “Lời di chúc của con người vĩ đại ấy là cho tất cả loài người, việc gì Người chưa làm, tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ tiếp tục làm”.

Bác Hồ ra đi đã 40 năm nhưng Người luôn luôn dẫn dắt chúng ta. Chúng ta vẫn cảm thấy có Người luôn luôn bên cạnh. Bởi vì chúng ta vẫn đi theo con đường của Người, tiếp tục trong sự nghiệp Đổi mới. Đảng ta đã mở cuộc vận động: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Hiện nay cán bộ, đảng viên tập trung học tập chuyên đề: “Tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân” nhằm nâng cao năng lực, trí tuệ, phẩm chất đảng viên, khắc phục và đẩy lùi những hiện tượng tiêu cực, phấn đấu thực hiện lý tưởng của Bác: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên đất nước thân yêu của chúng ta.

Kỷ niệm 40 năm thực hiện di chúc của Bác ở Huế cũng vào dịp Bộ Chính trị kết luận số 48 về xây dựng, phát triển tỉnh Thừa Thiên Huế thành Thành phố trực thuộc Trung ương với vị trí mới đối với đất nước, khu vực và thế giới. Những điều kiện về chính trị - kinh tế - văn hoá - giáo dục… Bộ Chính trị nêu ra, có một điều kiện rất quan trọng: Huế là nơi Bác Hồ và gia đình Người đã sống 10 năm… Đó cũng là một vinh dự trong văn hoá xứ Huế.

N.K

(247/09-09)



 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.

  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.