“Nấp” trong nhà báo Trần Nhật Minh với vẻ ngoài “đồ sộ, quánh màu nước thời gian”, là trái tim thi sĩ nhiều rung động. Cho nên, có lẽ đã lần lữa mãi, thì cũng phải đến ngày tâm hồn chật căng, buộc phải tỏa lan hương chất mà tháng năm cuộc đời mình đã trầm tích.
Mới nhất, cũng là cuốn sách đầu tay, khả năng sẽ khởi đầu cho một chùm sách gồm thơ, tạp văn, ghi chép… của nhà báo - thi sĩ Trần Nhật Minh, hiện công tác tại VOV6, là cuốn sách “Miền sau cánh cửa” do NXB Văn học ấn hành. Tác giả gửi vào đó những loạt tản văn, bài viết mà đi hết cuốn sách, người đọc nhận ra một nhà thơ với nhà báo thường xuyên song hành, đắp đổi lại qua làm nên nét độc đáo cho một con người theo nghiệp văn bút.
Mở ra là những lắng đọng về quá khứ phố Hà Nội, nơi Trần Nhật Minh trải qua cả ấu thơ và tuổi thanh xuân với cái khó, cái thiếu, cái nhọc nhằn của phố phường trong những năm bao cấp và dần chuyển sang quá trình chuyển đổi. Nhưng thực ra, vài nét chấm phá của gió lạnh lùa rít những ngôi nhà, của lam lũ cái ăn cái mặc, của một không gian phố xá phảng phất nỗi buồn nén lại…, hóa ra làm nền cho những gì là thanh sạch, là tươi sáng, là lịch duyệt hé mở.
Trong ký ức da diết của Trần Nhật Minh, con người ta vẫn kiên trì sống bằng sự co kéo vật chất nhưng không quên vun đắp những giá trị tinh thần, giữ gìn nét văn hóa của những người dân sống có tư cách, có tri thức. Tác giả dành nhiều chi tiết đáng nhớ cho những bức tranh này. Đó là cái lọ hoa sứt mẻ vẫn được chủ nhân tằn tiện trám lại để giữ cắm hoa. Là những năm thiếu đói nhưng cái giá sách trong nhà không thể thiếu sách. Là những nhà thơ gặp nhau trong vất vả để sống cùng văn học nghệ thuật, dù có thể trong những quãng thời gian nào, đó là sự “xa xỉ”. Là một người lao động ngoài bãi ven sông, nhận đời mình có thể coi như “bỏ đi” nhưng trước sau vẫn lo cho con chu đáo và sống tự trọng, yêu ai, lấy ai, không được “để cho người ta khổ”.
Cũng như vậy, dù thế nào thì xưa và nay, Hà Nội không thể thiếu những nét đặc trưng trong nếp sống, là phở, là bia hơi, là lang thang quán xá bình dân. Trần Nhật Minh dành những trang tả, kể thoang thoáng chuyện uống ăn mà không dừng lại ở sự “khoái khẩu, khoái tỷ”. Đằng sau đó là trải nghiệm, là nét tinh tế trong văn hóa sống, là cả đâu đó một nét người, đời người.
Đi từ phố xa ra làng mạc, tác giả hòa vào làng quê, đồng quê, người quê, mùi quê, khói quê… như trở về cái gốc xa xưa, bền chặt trong mỗi con người hôm nay, dù không hẳn đã sinh ra, lớn lên ở nơi ấy. Nhật Minh kể làng không bằng cái phong vị đạm bạc, thậm chí chạy theo cái gì đó… “quê mùa”. Mà lại thắm thiết ở niềm trân quý những nỗi vất vả như là những giọt mồ hôi truyền đời, ở tình con người chân thành, quyến luyến, như những ngọn khói cũng mang chở bao nhiêu nỗi niềm của người, của đất, của bếp, của những khoảng thời gian trong ngày, của mây trời thôn dã.
Và rồi từ phố nối làng, tác giả ra đi lên núi, ra biển, lên trung du, vào miền nam bộ, tìm đến đất mũi, lang thang các địa danh, gặp những con người, để dày thêm cho mình vốn sống xã hội và văn hóa các miền đất. Đáng chú ý, những vốn liếng xã hội, văn hóa ấy, bằng tư thế một nhà báo “đựng” một nhà thơ, Trần Nhật Minh nhập cuộc để trải nghiệm qua thực tế với đất và người, chứ không phải từ tài liệu, sách vở. Vì thế, dễ nhận thấy niềm đắm đuối, cảm hứng say mê, quý trọng của tác giả với những người, những cảnh, những chuyện mà anh đến.
Một họa sĩ giám đốc bảo tàng nơi tĩnh lại văn hóa dân tộc Mường, là hoa trái của bao nhiêu công phu sưu tầm, lưu giữ và lao lực hoạt động để lan tỏa. Một người H’Mông đắm đuối giữ tiếng khèn trên núi cao. Những nghệ sĩ phương Nam đem cả đời lưu giữ ngón đàn, câu hát, và cũng chính đàn hát là cơn cớ cho khúc quanh ngả rẽ trong đời. Một đồng nghiệp báo chí lăn lộn nhiều năm trong những vùng sâu vùng xa, hạnh phúc âm thầm với những thông tin của mình được đồng bào chờ đón… Và những miền xa ấy, những món ăn, những cảnh sắc, đôi nét tập quán nơi Việt Trì, Đồng Tháp, Cần Thơ, Cà Mau… cứ mở ra như lôi kéo, quyến rũ.
Kể cả khi, và đây cũng là nét quý giá trong tác nghiệp của một nhà báo, viết về những nỗi buồn, những góc khuất từ những địa bàn có tệ nạn nghiện hút, những nơi có sự thiếu học, vẫn còn đói nghèo…, thì ngòi bút Trần Nhật Minh không hề né tránh. Nhưng chất văn hóa trong cách kể, và cái nhìn bao quát và tinh thần lạc quan khiến cho những bài ghi chép được mở rộng khiến người ta thấm và nghĩ nhiều hơn về những thông tin được phản ánh.
Có lẽ, hình như lâu nay, không dễ dàng người đọc tìm được những bài bút ký, ghi chép báo chí đậm chất văn mà ở đó người viết có thể có đôi chút giãi bày, tâm sự cùng người đọc. Mà những là ngồn ngộn thông tin, ăm ắp tài liệu, và tới tấp những sự kiện, diễn biến. Có lẽ xu hướng cạnh tranh thông tin, đề tài đã tác động không nhỏ đến cách kể của các cây bút nói chung. Hay là, cần có những hình thức phù hợp cho sự trở lại của một dòng chảy phóng sự, ghi chép, bút ký báo chí thong thả hơn, chậm rãi hơn? Nên thế!
Cuốn sách của Trần Nhật Minh còn kéo người đọc qua những miền đất xa xôi để cũng kể tả gọn gàng mà khá tài tình, tác giả chấm phá ra một số nét văn hóa, đặc trưng con người và câu chuyện xã hội nổi bật của miền đất đó: Yangon (Myanmar), Tokyo (Nhật Bản), Bắc Kinh (Trung Quốc). Để rồi, cuối cùng, đưa người đọc trở về nhà xưa với ký ức chờ xuân, đón Tết nồng nàn bên gia đình tằn tiện và sum họp thuở nào. Vậy là “Miền sau cánh cửa”, bước ra trên thềm nhà để ngóng theo những con đường xa, những chân trời lạ. Nhưng cũng là mở tay nắm khung cửa để trở vào một miền hoài niệm chân thật trong căn phòng nhỏ đầy ắp nỗi nhớ về những đi, những sống, những nghiệm ra, những nhận lấy, và trở về.
Trong niềm vui chờ xuân Tết hôm nay, gấp sách lại, như còn bâng khuâng trạng thái nao nao quá khứ mà Trần Nhật Minh mở cánh cửa lòng mình, hé lộ cùng người đọc bí mật về những khoảnh khắc “yếu lòng”. Có lẽ những cánh cửa sẽ không dừng lại từ đây. Chờ đợi những cuốn sách khác của Trần Nhật Minh nhà báo - thi sĩ. Hay là sẽ như vậy chăng? Nên thế!
Hội Nhà văn Việt Nam được chính thức thành lập từ năm 1957, sau Hội nghị thành lập Hội diễn ra tại trụ sở Câu lạc bộ Đoàn Kết, từ 1/4 đến 4/4/1957. Trong lịch sử văn học Việt Nam thời hiện đại đây là lần đầu tiên có một tổ chức của những người lao động văn học trên toàn quốc.
Tái hiện bức tranh Hà Nội thời bao cấp, rồi từ đó đi tìm cái chất nhân văn thuần nhất trong đời sống con người, “Chuyện ngõ nghèo” là cuốn tiểu thuyết đánh dấu sự trở lại của Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh năm 2017 sau một loạt các tiểu thuyết đình đám như: Mẫu Thượng Ngàn, Hồ Quý Ly, Đội gạo lên chùa…
1. “Thiện, Ác và Smartphone” là tập tiểu luận thứ hai của Đặng Hoàng Giang, sau “Bức xúc không làm ta vô can” - cuốn sách ra mắt năm 2015 và gây được tiếng vang rộng rãi.
Nhân chuyến trở lại Việt Nam truyền giảng phật pháp, ngày 4-4, Tiến sĩ Phật học Khangser Rinpoche đến từ Ấn Độ đã dành nhiều thời gian giao lưu cùng bạn đọc tại TPHCM.
Nguyễn Trí được biết đến vào năm 2013 khi tác phẩm Bãi vàng, đá quý trầm hương (NXB Trẻ) đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. “Sự nghiệp” cầm bút của Nguyễn Trí đến nay mới chỉ 5 năm nhưng ông đã có 9 cuốn sách truyện dài, truyện ngắn ra đời.
Phan Việt vừa có buổi giao lưu về tác phẩm mới nhất, cũng là tác phẩm chị cho là quan trọng nhất trong bộ ba "Bất hạnh là một tài sản" của mình.
Sáng 21-3, tại trụ sở Hội Nhà văn TPHCM, đã diễn ra buổi ra mắt tập tiểu luận, phê bình Nhà văn Lê Văn Thảo trong lòng đồng nghiệp do Hội Nhà văn TP thực hiện (NXB Hội Nhà văn xuất bản).
Nhà sách Trí Việt cho biết sau gần 3 năm thực hiện với 6 lần chỉnh sửa, Hội đồng thẩm định cuốn sách “Gạc Ma - Vòng tròn bất tử” do Ban Tuyên giáo TƯ thành lập đã đồng ý cho phép xuất bản cuốn sách này.
Lịch sử phát triển của hệ thống thể loại báo chí cho thấy Bút ký chính luận giữ một vai trò quan trọng trong việc định hướng xã hội. Nó là thể loại không thể thiếu trong việc giáo dục tư tưởng, chính trị cho quần chúng. Trong một thế giới đương đại, trong một xã hội bùng nổ thông tin với nhiều biến động, Bút ký chính luận càng trở nên quan trọng và cần thiết cho đời sống.
Ngày 4 và 5/1, Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam tiến hành họp để bình chọn bảy tác phẩm xuất sắc của làng viết năm qua. Kết quả được công bố hôm 10/1.
Nghiên cứu công phu, tư liệu chính xác, văn phong mạch lạc và giàu cảm xúc, tác phẩm Văn chương phương Nam - một vài bổ khuyết của hai tác giả Võ Văn Nhơn và Nguyễn Thị Phương Thúy không chỉ khiêm tốn “bổ khuyết” mà là công trình giàu tâm huyết với những khám phá ngạc nhiên mới lạ rất hữu ích.
Nói về cuốn sách phê bình văn học Giăng lưới bắt chim của mình, Nguyễn Huy Thiệp hay nhắc lại điều thoạt tiên tưởng rằng ông "lấp lửng": tôi viết có đúng có sai, có chính xác có nhầm lẫn, viết khi mình "đang còn nửa mê nửa tỉnh".
Có một thực tế là rất nhiều người song hành giữa việc viết văn và viết báo. Xét về góc độ thể loại thì văn học và báo chí là hai thể loại khác nhau nhưng giữa chúng lại có sự tương đồng với nhau về nhiều khía cạnh. Vì thế việc song hành giữa văn chương và báo chí là điểu dễ hiểu.
hông biết đã đến đáy chưa thảm trạng tác giả (khoa học và nghệ thuật) bị xâm hại trắng trợn về bản quyền như hai công trình về dân tộc học của GS.Từ Chi, và về sử học của GS.Trần Quốc Vượng. Hai tác giả có tên tuổi đã quá cố, và những nhà xuất bản gây nên sự cố, làm méo mó, biến dạng đứa con tinh thần của họ lại là những nhà xuất bản có những cái tên rất sang, là cơ quan ngôn luận của những cái hội nghề nghiệp lẽ ra phải rất nghiêm chỉnh, đứng đắn trước công luận. Các cơ quan truyền thông đã lên tiếng. Không biết gia đình, thân nhân của hai tác giả có ý kiến gì không? Ta đã có lệ luật gì về những vụ việc như vậy, để đưa ra tòa án dư luận?
Chiều 7.10, Hội đồng giám khảo giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội gồm các nhà văn, nhà thơ: Bằng Việt, Nguyễn Việt Chiến, Phạm Xuân Nguyên, Bùi Việt Mỹ, Nguyễn Sĩ Đại, Lê Minh Khuê, Đoàn Tử Huyến, Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Thành Phong đã họp phiên chung khảo.
Ngày 4/10, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đến dự và phát biểu tại Hội thảo khoa học toàn quốc “Văn học, nghệ thuật với việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam” do Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác phẩm văn xuôi, trong đó có truyện ngắn xuất hiện trên báo chí đã trở thành món ăn tinh thần nhiều năm nay cho độc giả. Tuy nhiên, dường như món ăn tinh thần này đang ngày càng có xu hướng bị co lại, bị thay thế.
Sáng tạo văn học nghệ thuật về đề tài chiến tranh, cách mạng thời gian qua đã có nhiều đổi mới và được giới chuyên môn ghi nhận.
Viết về cuộc Cách mạng mùa Thu 70 năm về trước, nhà văn Nguyễn Đình Thi - người can dự, đồng thời là chứng nhân của cuộc cách mạng vĩ đại đó (Năm1945 ông dự Hội nghị Quốc dân Tân Trào và được cử vào Ủy ban Giải phóng dân tộc; sau đó được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I là Ủy viên thường trực) đã ví nó giống như “một cuộc lột vỏ”, “rũ bùn” đứng lên của con người, của dân tộc Việt Nam: Súng nổ rung trời giận dữ/ Người lên như nước vỡ bờ/ Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa (Đất nước).
Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới về văn hóa văn nghệ được đề ra trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986), văn học Việt Nam đã có nhiều bước chuyển sâu sắc, đạt nhiều thành tựu đáng kể trên tất cả các thể loại, góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền tảng văn hóa, tinh thần của con người và xã hội.