Về tính hệ thống và tính dân tộc của tín hiệu thẩm mỹ trong văn học

09:23 30/03/2010
NGUYỄN THỊ XUÂN YẾNLà một nội dung mở, tín hiệu thẩm mỹ (THTM) đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu khoa học quan tâm, đặc biệt là các nhà nghiên cứu văn học đã bàn luận khá rộng.

Ảnh: Internet

Trong tạp chí sông Hương tháng 7/1997, chúng tôi đã có dịp đề cập đến khái niệm, tính chất, loại hình, nguồn gốc của THTM trong văn học. Để nhìn nhận vấn đề THTM được khái quát và hoàn chỉnh, trong bài viết này, chúng tôi mạnh dạn bàn thêm về tính dân tộc và tính hệ thống của THTM.

Tính dân tộc đồng thời là tính hệ thống và tính cách tân. Chúng ta biết rằng, các yếu tố hiện thực xuất hiện ở một dân tộc nhất định, trong một nền văn hoá nhất định đều chịu sự chi phối của nền văn hoá dân tộc đó. Chính vì vậy, THTM có những nét chung như cũng có những nét riêng cho mỗi dân tộc. THTM chung của nhân loại khi đi vào các dân tộc có thể có những biến đổi riêng theo các dân tộc đó. Ví như THTM “bùn lầy” đều có ở trong thơ Pháp và trong thơ Việt Nam. Tuy nhiên, ở trong thơ Việt, khi nói đến “bùn lầy” tức là nói đến sự vất vả, sự khốn quẫn của người nông dân về đời sống kinh tế. Chẳng hạn: “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Nguyễn Đình Thi). Trong thơ Charles Baudelaire, “bùn” được dùng với nghĩa chỉ sự đồi bại về đạo đức, về sự bẩn thỉu của nhân cách: “Ở nơi đây bùn lầy đã được tạo nên bằng nước mắt của chúng ta”.

Các THTM đều được khai thác từ hiện thực nên qua chúng, người ta có thể nghe được hơi thở của dân tộc mình. Trong hiện thực, dòng sông mang ý nghĩa ngăn cách vì vậy trong văn học THTM dòng sông thường  có ý nghĩa cách  trở. Để diễn tả những cuộc chia tay, người ta thường dùng THTM “dòng sông”: “Đưa người ta không đưa qua sông - Sao có tiếng sóng ở trong lòng” (Thâm Tâm).

Có những THTM ở nước này được hiểu như thế này nhưng ở nước khác lại hiểu theo nghĩa khác. Đơn cử THTM “cây thông”, ở Trung Quốc được hiểu theo nghĩa tốt. Ở Campuchia lại hiểu theo nghĩa xấu. Hay THTM “con chim”, ở Việt Nam được hiểu theo nghĩa tốt nhưng ở Tây Ban Nha và các nước nói tiếng Tây Ban Nha lại nói đến những người đồng tính luyến ái.

Về sự cách tân, có những THTM đã có từ trước nhưng qua mỗi thời đại nó lại đổi thay. Ai cũng từng biết THTM “con thuyền” được dùng nhiều trong thơ Huy Cận. Nếu như trước 1945, người ta cảm nhận được sự đơn chiếc, sự lẻ loi từ THTM “con thuyền” trong thơ ông: “Nghe rét thu về hạ kín mui” thì sau 1945, sự đơn chiếc, sự lẻ loi ấy đã nhường chỗ cho sự tấp nập, sự ấm áp: “Thuyền đậu thuyền đi hạ kín mui - Lưa thưa mưa biển ấm chân trời”. THTM cũng luôn luôn biến thể. Có những THTM nằm trong phạm trù nhưng cũng có những THTM được nâng lên.

Nói đến tính hệ thống của THTM, trước hết người ta thường xác định khái niệm hệ thống. Hiện nay, hầu như tất cả các nhà nghiên cứu văn học đều đã nói đến phương pháp hệ thống trong nghiên cứu văn học. Người ta cho rằng, phương pháp hệ thống có hiệu lực hơn cả. Phương pháp này giúp cho người nghiên cứu có thể bao quát các hiện tượng và lý giải các hiện tượng riêng lẻ. Phương pháp hệ thống được phát biểu dưới nhiều dạng khác nhau. Gần đây có người nêu ra một phương pháp mới là phương pháp cầu hình. Thực ra, đó cũng là một trong những phương pháp của phương pháp hệ thống.

Khi nói đến hệ thống thì cái then chốt là mối quan hệ. Bởi, hệ thống là một thể thống nhất gồm các yếu tố có quan hệ quy định lẫn nhau. Mỗi yếu tố có một giá trị nào đó thì giá trị ấy quan hệ với các yếu tố khác quyết định. Từ quan hệ mà tìm ra giá trị của yếu tố. Trong quan hệ của các yếu tố thường có hai loại. Quan hệ thường dùng để phân tích là quan hệ ngang và quan hệ dọc. Hai loại quan hệ này dùng xác định giá trị của yếu tố. Ngoài ra, người ta cũng thường nói đến các quan hệ đồng nhất và đối lập, quan hệ cấp độ, quan hệ giữa các bình diện.

Quan hệ đồng nhất là có sự thống nhất giữa các tín hiệu đẳng cấu đối với nhau (1). Đối lập là cái này khác với cái kia, cái khác này nằm trong một giá trị, khác về giá trị chứ không phải về hình thức. Chúng ta đều biết rằng, một hệ thống thường có những quan hệ phức hợp. Ngôn ngữ là một hệ thống phức hợp nên nó được chia thành từng cấp độ: ngữ âm, từ, cụm, từ, đoạn, văn bản. Người ta gọi đó là quan hệ cấp độ. Quan hệ giữa các bình diện là nói đến mặt trừu tượng và mặt cụ thể.

F.De.Saussure, nhà ngôn ngữ học đầu thế kỷ XIX đã tuyệt đối hóa tính nội tại của hệ thống . Nội tại là khi nghiên cứu một hệ thống chỉ cần biết bản thân hệ thống, xem xét trong lòng hệ thống đó, không cần xem xét môi trường bên ngoài tác động đến hệ thống đó. Khi nghiên cứu một tác phẩm văn học, người nghiên cứu chỉ cần nắm được những quan hệ và phát hiện ra cấu trúc nội tại của tác phẩm đó là được.

Hiện nay, quan điểm hệ thống đã vượt ra khỏi giới hạn của luận điểm và tính nội tại. Hệ thống có mặt nội tại nhưng cũng có tính hướng ngoại.

Trở lại vấn đề đang bàn, chúng ta thấy  rằng, xem xét THTM theo quan điểm hệ thống trước hết phải đặt nó trong quan hệ ngangquan hệ dọc. Trong văn học cũng vậy, quan hệ ngangquan hệ dọc có thể là trong một tác phẩm, trong một nền văn học, một giai đoạn văn học. Một tác phẩm, một giai đoạn , một nền văn học đều được xem như một hệ thống. Khi xuất hiện trong một tác phẩm văn học, THTM đều có quan hệ với các tín hiệu trong tác phẩm. người ta gọi đó là quan hệ ngang. Còn quan hệ dọc là quan hệ của nó với các biến thể của chính nó trong các tác phẩm cùng thời hay trong chiều dọc của lịch sử một nền văn học. Trong bài thơ “Tràng giang”, tác giả Huy Cận đã sử dụng 3 cặp quan hệ ngang: Thuyền - sông, thuyền - bến, thuyền - bờ. Mỗi cặp quan hệ ngang đều có ý nghĩa khác nhau. Để làm rõ hơn khái niệm trên, chúng tôi thử đơn cử các cặp quan hệ ngang thường xuất hiện trong văn học:

- Gió-bão: thường có ý nghĩa chỉ sự xung đột dữ dội.

- Gió-mưa: được hiểu với nghĩa là nỗi gian lao, bất hạnh của cuộc đời, nó còn chỉ quan hệ tình dục.

- Gió-bụi: chỉ sự từng trải trong cuộc sống, nỗi gian lao trên đường đi.

- Sương-gió: thường nói đến những người phụ nữ phải sống cuộc đời bán thân nuôi miệng.

- Gió-mây: nói đến một cái gì đó thoát tục, phiêu du, nói đến những người xa thực tế.

- Gió-trăng: chỉ sự thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên, nhưng cũng có thể hiểu tình trăng gió, chỉ thỏa mãn nhục dục chứ không gắn bó.

Những ví dụ trên đây lần nữa khẳng định rằng, trong một hệ thống, giá trị của yếu tố được tìm ra từ quan hệ.

Xét về quan hệ dọc của THTM trong văn học, người ta thường nhắc đến THTM “Cây trúc” trong thơ Nguyễn Khuyến. Hầu như trong các bài thơ nổi tiếng của mình, Nguyễn Khuyến thường nói nhiều đến “cây trúc”. Chẳng hạn:

“Dặm thế ngõ đâu từng trúc ấy

Thuyền ai khách đợi bến đâu đây”
(Nhớ cảnh chùa Đọi)

“Gậy men ngõ trúc đạo đường hoang” (Đến chơi nhà bác Đặng)

“Gió im trúc lại lặng như tờ” (Giải buồn)

“Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” (Thu điếu)

Có nhiều ý kiến cho rằng, chỉ có một trường hợp trúc nảy chồi xanh, còn phần lớn cây trúc trong thơ Nguyễn Khuyến đều lơ phơ thưa thớt, các tín hiệu đi kèm thường là ngõ, bến đợi, tiếng hạc, chiếc thuyền câu…

Trong quan hệ dọc, trúc không phải chỉ để tả cảnh mà trúc còn tượng trưng cho người quân tử, người quân tử thường lánh mình trong rừng trúc. Ngoài ra trúc còn tượng trưng cho phẩm chất thanh cao. THTM “cây trúc” trong thơ Nguyễn Khuyến tượng trưng cho người quân tử nhưng lại lẻ loi, cô độc, lạnh lùng…

Trong văn học, khi xem xét các THTM, việc đặt chúng theo quan hệ dọc, quan hệ ngang để tìm ra giá trị đích thực của các THTM hết sức quan trọng.

Không tham vọng bàn luận một cách triệt để về khái niệm THTM trong văn học nhưng chúng tôi hy vọng rằng , một số vấn đề bàn thêm ở bài viết trước đây và ở bài viết này sẽ giúp chúng ta có cái nhìn tương  đối khái quát hơn đối với một khái niệm đang được các nhà  nghiên cứu lưu tâm, bàn luận.

N.T.X.Y.
(134/04-00)


------------------
(1) Xem thêm về khái niệm đẳng cấu ở TCSH tháng 7/1997, trang 74.







 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN(Trao đổi về tiểu luận Văn học như là tư duy về cái khả nhiên của Trần Đình Sử, Văn Nghệ số 24 ngày16/6/2007)

  • VĂN TÂMXứ Huế – Thừa Thiên có một vị lão thành cách mạng được nhiều người biết tên tuổi. Đó là cụ Nguyễn Vạn, tức Lê Bốn; tên khai sinh là Phùng Lưu – "thầy Lưu", sinh năm 1916, quê ở làng Thanh Thủy Thượng (nay thuộc xã Thủy Dương), huyện Hương Thủy.

  • NGUYỄN BÙI VỢI"Chống tham ô lãng phí" là một bài thơ về đề tài chính trị xã hội, một vấn đề bức xúc của cuộc sống. Nó được viết ra năm 1956 khi miền Bắc sau chín năm kháng chiến chống Pháp gian khổ đang hàn gắn vết thương chiến tranh, khai hoang, phục hoá, tìm công ăn việc làm...

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNMuốn tiếp cận với văn hoá văn học, trước hết phải xác định cơ bản đúng đắn thế nào là văn hoá và thế nào là văn học.

  • HOÀNG SĨ NGUYÊN Hồi học Đại học, tôi và mấy đứa bạn phải đi bộ năm, sáu cây số vòng quanh các hiệu sách thành phố để tìm mua cho được cuốn "Thơ và mấy vần đề trong thơ Việt nam hiện đại" (Hà Minh Đức, NXB KHXH, 1994).

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong cuốn sách dịch, đúng hơn là trích dịch Những vấn đề thi pháp Đoxtoiepxki của M.M Bakhtin, chúng tôi đã giới thiệu những lời đánh giá quan trọng của các học giả thế kỷ XX đối với Bakhtin: "Bakhtin, nhà lý luận văn học lớn nhất của thế kỷ XX" (TS. Todorov). "Bakhtin, người giữ cho các khoa học nhân văn đối tượng riêng của chúng" (X.X. Avêzinxép), "Bakhtin, người đem lại một quan niệm hoàn toàn mới về ngôn từ tiểu thuyết" (A. Tritrêrin)...

  • PHONG LÊViệc xác định một đề tài nghiên cứu cho bất cứ ai bước vào con đường khoa học, theo tôi là động tác quan trọng đầu tiên, có ý nghĩa quyết định, như là một ô cửa, một đột phá khẩu trổ ra cái bầu trời, hoặc quang đãng hoặc vần vụ mưa gió, rồi anh ta sẽ được bay lượn ở trong đó.

  • ĐỖ LAI THUÝNgàn mây tràng giang buồn muôn đời                                 Nguyễn Xuân Sanh

  • VŨ QUẦN PHƯƠNGTên thật cũng là bút danh, sinh ngày 18-9-1949 tại quê gốc huyện Lệ Thuỷ, Quảng Bình.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một số lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60-70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • HỒ TIỂU NGỌCLTS: Nhân dịp kỷ niệm 53 năm Quốc khánh nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài thơ sau đây của tác giả Đoàn Duy Thành. Bài thơ thể hiện tình hữu nghị cao quý của nhân dân hai nước Việt - Trung.

  • HỒNG NHU            (Tham luận tại Hội nghị Văn học Miền Trung lần thứ II tháng 9-2002) LTS: Hội nghị văn học miền Trung lần thứ hai vừa diễn ra tại thị xã Sầm Sơn, Thanh Hoá trong 2 ngày 19 và 20 tháng 9 năm 2002. Gần 80 nhà văn của 18 tỉnh thành từ Bình Thuận đến Thanh Hoá đã về dự. Ngoài ra còn có đại diện các hội đồng chuyên môn, các ban công tác, các cơ quan báo chí xuất bản của Hội Nhà văn Việt cũng có mặt trong cuộc hội ngộ này.

  • THÁI BÁ LỢIMột nhà văn lớp đàn anh của tôi tâm sự: Chỉ có miền Trung mới có văn xuôi thôi, vì ở đây từ đất đai, khí hậu con người luôn luôn được thử thách, được cọ xát, được tôi rèn, với hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy mới bật ra tư tưởng, mà văn xuôi là tư tưởng.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Không nhà thơ nào muốn lặp lại những gì thơ ca đã có, kể cả lặp lại chính mình. Đi tìm cái lạ cái mới, chính là bản chất của sáng tạo.

  • NGUYỄN QUANG HÀHình như trong máu của người Việt đều có một chút máu thi nhân. Cho nên thấy ai cũng mê thơ cả. Chả thế mà tít mãi vùng hẻo lánh, các bà mẹ ru con bằng Kiều, bằng ca dao. Lời ru giống như một sự ngẫu hứng, cứ thế tự trào ra từ tâm hồn mình.

  • TRẦN THANH ĐẠMNgày13 tháng 06 năm 2002 vừa qua là dịp kỷ niệm lần thứ 75 ngày mất của một trong những nhà yêu nước và cách mạng tiền bối, một nhà giáo dục lớn của nước ta đầu thế kỷ XX: chí sĩ Lương Văn Can (1854-1927).

  • LÊ HỒNG SÂM Cách đây mươi năm, trong một cuộc phỏng vấn thân mật, chị Lộc Phương Thuỷ có hỏi tôi về những kỷ niệm đáng nhớ, liên quan đến văn học, nhất là văn học Pháp. Tôi đã kể cho chị Thuỷ mẩu chuyện nhỏ mà hôm nay tôi xin thuật lại, dưới tiêu đề phù hợp với một trong hai nội dung của hội thảo Fantine, Cosette và chiếc đòn gánh Việt .

  • HỒNG NHULTS: Những cuộc trao đổi mang tính nghề nghiệp về thơ ở tầm "vĩ mô" dường như đang co lại ở tầm "vi mô". Các ý kiến khác nhau, thậm chí ngược nhau trong tranh luận học thuật là chuyện bình thường. Song, sẽ không bình thường khi công cuộc đổi mới của Đảng đã bước vào nền kinh tế tri thức mà vẫn còn những "tư duy thơ" theo cơ chế suy diễn với những mục đích gì đó, ngoài thơ.Nhằm rộng đường dư luận, Sông Hương xin được trao đổi lại một trường hợp cụ thể sau đây.

  • MAI VĂN HOANỞ Huế tôi đã có nghe bạn bè nói sơ qua về cuộc hội thảo tập thơ "Đám mây lơ lửng" của Hoàng Vũ Thuật, tác phẩm đoạt giải A giải thưởng VH-NT Lưu Trọng Lư lần thứ hai (1996 - 2000) do Hội Văn nghệ Quảng Bình tổ chức.

  • ĐÀO DUY HIỆP“Đi tìm thời gian đã mất” của Marcel Proust (1871-1922) là một tiểu thuyết đồ sộ gồm bảy tập với trên dưới ba nghìn trang ngày nay đã được độc giả toàn thế giới say sưa đón đọc và được nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu đánh giá rất cao.