Về tính độc đáo tập thể trong nghệ thuật

10:03 12/03/2019

VŨ HIỆP

Nhà thơ Baudelaire từng viết rằng: “Tính cá nhân, sự sở hữu bé nhỏ này, đã ăn mòn tính độc đáo tập thể... Tức là người họa sĩ đã giết chết hội họa”.

Tính độc đáo tập thể (l’originalité collective), quả thực đã bị bào mòn rất nhiều từ khi nền nghệ thuật Hiện đại ra đời. Kandinsky đã sáng tạo ra hội họa trừu tượng một phần từ nền tảng tranh dân gian Nga, và đôi khi chúng ta vẫn thấy “âm hưởng Nga” trong tranh trừu tượng của ông. Nhưng khi chủ nghĩa trừu tượng được lan tỏa toàn thế giới thì nó đã không còn giữ được mã gien dân tộc của các họa sĩ học tập theo. Một bức tranh trừu tượng (hoặc biểu hiện trừu tượng) ngày nay do một họa sĩ Mỹ vẽ không khác gì mấy so với một họa sĩ Việt Nam. Tính độc đáo tập thể còn bị “khủng bố” mạnh hơn nữa trong các dạng thức “ngoài giá vẽ” của nghệ thuật đương đại. Từ Duchamp, Kosuth cho tới Kabakov, Ngải Vị Vị, chúng ta chỉ thấy những ý tưởng quốc tế hay vị lai, về một giá trị đại đồng mơ hồ nào đó, mà rất hiếm khi thấy một giá trị cá nhân chứ chưa nói đến giá trị dân tộc. Kosuth có rất nhiều các ý tưởng mới lạ, nhưng khi gộp tất cả các tác phẩm khái niệm hay sắp đặt đó lại, ta rất khó xác định một “phong cách Kosuth” hay xa hơn là “nghệ thuật khái niệm Mỹ”. Quả thực, nghệ thuật đương đại là một thử thách khó khăn trong việc xác định mã gien di truyền của cộng đồng. Nói theo cách khác, nghệ thuật đương đại đang trốn tránh tính độc đáo tập thể một cách có chủ ý.

*

Stravinsky là một trong những nhạc sĩ xuất sắc nhất thế kỷ 20 và thành công trong nhiều xu hướng âm nhạc khác nhau ở các giai đoạn khác nhau của cuộc đời: truyền thống Nga (1907 - 1919), Tân cổ điển (1920 - 1954), chuỗi 12 cung (1954 - 1968). Nhưng những tác phẩm mang lại vinh quang cho ông và ảnh hưởng lên toàn thế kỷ lại là những tác phẩm viết cho ballet được sáng tác trong giai đoạn truyền thống Nga: Con chim lửa (1910), Petrushka (1911), Nghi lễ mùa xuân (1913). Rõ ràng, vị trí của Stravinsky trong lịch sử âm nhạc thế giới được ghi nhận bởi sự lưu giữ và phát triển mã gien “truyền thống Nga”, trong đó vai trò của nhịp điệu, vốn được coi trọng trong âm nhạc dân gian Nga, được đẩy lên đỉnh cao. Như lời nhà phê bình A.J. Browne thì “Stravinsky chính là nhạc sĩ giỏi nhất trong việc phát triển nhịp điệu trở thành phẩm giá của âm nhạc”. Phương Tây tôn vinh Stravinsky không phải vì muốn tôn vinh những giá trị âm nhạc Nga (ngược lại, người phương Tây thường có tâm lý e ngại và lo sợ đối với người Nga), mà vì những mã gien truyền thống Nga trong âm nhạc Stravinsky đã đưa âm nhạc loài người đến những vùng đất mới mà những mã gien của người Tây Âu lại không thể đến đó được. Sự bảo tồn và phát huy những mã gien nghệ thuật của các dân tộc khác nhau là rất quan trọng để nghệ thuật loài người nói chung có thể đi được xa hơn.

*

Trước thế kỷ 20, người ta không khó để nhận ra sự khác biệt giữa kiến trúc Pháp (thậm chí giữa các vùng miền nước Pháp cũng có phong cách kiến trúc khác nhau) với kiến trúc Nga, kiến trúc Hà Lan, và càng khác hơn nữa với kiến trúc Việt Nam hay Trung Quốc. Nhưng giờ đây, khắp các đô thị trên toàn thế giới ta chỉ thấy những khối hộp giống nhau như những sản phẩm công nghiệp. Nếu như có một xu hướng kiến trúc mới nào đó ra đời và được tâng bốc thì ngay lập tức nó lan tỏa ra toàn thế giới bởi những hãng kiến trúc toàn cầu và sự bắt chước của các kiến trúc sư có nền lý luận phê bình yếu kém. Nhớ lại năm 1932 khi kiến trúc sư nổi tiếng đương thời của Pháp là Le Corbusier trình bày đồ án Cung Xô Viết ở Moskva với phong cách hiện đại, Stalin trả lời rằng: “Tôi không phải là một kiến trúc sư, tôi không biết nhiều về kiến trúc, nhưng tôi biết chắc rằng người dân Xô-viết không đánh giá cao nó”. Và quan điểm của Stalin không phải là không có lý khi ta nhìn lại kiến trúc và đô thị hiện đại khắp các nước tư bản phương Tây là “na ná” nhau, rất khó phân biệt tính dân tộc, còn nghệ thuật của Liên Xô, nhất là giai đoạn Stalin cầm quyền, lại có đặc trưng riêng khó nhầm lẫn. Có thể kiến trúc Liên Xô cục mịch và không bay bổng như kiến trúc của các nước tư bản, nhưng rõ ràng nó chứa đựng mã gien của dân tộc mình. Sự kiên định về bản sắc dân tộc và không a dua theo xu thế của Stalin là yếu tố quyết định tạo nên vẻ đẹp đặc biệt của kiến trúc Liên Xô dưới thời ông lãnh đạo. Phong cách kiến trúc thời Stalin, đặc biệt ở những tòa nhà cao tầng như Khách sạn Ukraina, Đại học Tổng hợp Moskva, Trụ sở Bộ ngoại giao,... cho thấy phảng phất hình ảnh của những tháp canh, pháo đài Nga cổ, những hình ảnh gợi lên khát vọng vươn cao dựa trên những nền tảng bền chặt vững chắc, như chính tính cách của người Nga, mà người Việt Nam ta hay nói vui rằng “nồi đồng cối đá”.

Ở một trường hợp ngược lại, năm 1952 - 1959 Ấn Độ đã trải thảm đỏ mời Le Corbusier đến quy hoạch thành phố mới và thiết kế các tòa nhà hành chính quan trọng của bang Chandigard. Thành phố này đã đi vào sách giáo khoa kiến trúc và đô thị thế giới như là biểu tượng chiến thắng chói lọi của chủ nghĩa Hiện đại. Nhưng sau hơn nửa thế kỷ, giờ đây Chandigard là biểu tượng cho sự thất bại của chủ nghĩa Hiện đại nói chung và của Le Corbusier nói riêng. Chandigarh hiện tại là một thành phố không có sức sống và không trở thành nơi chốn theo đúng nghĩa mà một đô thị phải có. Công trình Dinh thống đốc đã bị phá hủy vì xuống cấp trầm trọng. Còn Tòa nhà Hội đồng tuy chưa bị phá, bởi đã được công nhận là Di sản thế giới, nhưng gần như trở thành nơi tập kết phế liệu. Việc các công trình nhếch nhác ở Chandigard trở thành di sản thế giới là điều mà chúng ta nên trân trọng và thận trọng, bởi lịch sử dù huy hoàng hay đau buồn thì nó vẫn là lịch sử, chúng ta không thể chối bỏ nó, có ngày xưa thì mới có hôm nay. Hơn nữa, việc đề cao và gìn giữ các công trình kiến trúc thất bại cũng là việc cần thiết để răn dạy các thế hệ kiến trúc sư sau này. Trung tâm hành chính Chandigard trở thành một nơi chốn thất bại là có nhiều lý do nhưng trong đó không thể bỏ qua các nguyên nhân liên quan đến kiến trúc: thứ nhất, bê tông thô không phải là vật liệu bền vững cho thẩm mỹ và không phải bất cứ lúc nào chỗ nào cũng dùng được; thứ hai, hình thái kiến trúc các công trình ở đó chưa thật phù hợp với truyền thống và điều kiện Ấn Độ; thứ ba, sự thiếu vắng mã gien, văn hóa, tinh thần Ấn Độ trong kiến trúc nơi đây.

*

Ngày nay, tính độc đáo tập thể trong kiến trúc nói riêng và trong nghệ thuật nói chung vẫn bị mờ nhạt dù cho chủ nghĩa Hậu hiện đại đã khích lệ lên ít nhiều. Quá trình toàn cầu hóa nhanh chóng đã làm cho các cộng đồng yếu thế ngày càng yếu thế hơn, các nhóm người có ưu thế về tài chính, dữ liệu, truyền thông ngày càng gia tăng sức ảnh hưởng của mình. Không ít các nghệ sĩ Đương đại ở các nước (phát triển và đang phát triển) chỉ chờ đợi các dự án bảo trợ của giới đầu tư ngồi ở New York, London..., nếu chưa có bảo trợ thì không thể làm gì cả. Nghệ thuật ngày nay phụ thuộc rất nhiều vào thị trường, mà thị trường không phải do nghệ sĩ quyết định mà do giới tinh hoa ở các trung tâm tài chính định hướng. Tất nhiên trong giới văn nghệ vẫn luôn có những người giữ vững đức hạnh thẩm mỹ của mình, nhưng họ phải rất nỗ lực thì mới có thể chống đỡ và chuyển hóa được sức mạnh của toàn cầu hóa. Trước sự tấn công tư tưởng của các nhóm tinh hoa thế giới ẩn nấp trong danh xưng “toàn cầu hóa”, những nền nghệ thuật yếm thế (như Việt Nam chẳng hạn) rất cần có chiến lược và chiến thuật cụ thể để bảo vệ và phát huy tính độc đáo tập thể của cộng đồng mình.

Bên cạnh thách thức của toàn cầu hóa, tính độc đáo tập thể, như lời Baudelaire, còn bị bào mòn bởi chủ nghĩa cá nhân; các nước Nga và một số nước châu Á như Iran, Ấn Độ, Trung Quốc,... đi theo xu hướng kết hợp chủ nghĩa dân tộc với các tư tưởng chính trị khác, như là một phương cách chống lại chủ nghĩa tư bản cá nhân và đế quốc của phương Tây. Chủ nghĩa tư bản dân tộc đã giúp các nước châu Á không bị sụp đổ sau những đợt tấn công vào hệ thống tài chính từ phố Wall năm 1997, cũng như giúp Nga đứng vững trước những đòn trừng phạt từ phương Tây năm 2015.

Ngày nay, nghệ thuật thế giới có thể chia thành hai xu hướng chính: thứ nhất, toàn cầu hóa và tự do cá nhân được giới tinh hoa phương Tây bảo trợ; thứ hai, bản sắc dân tộc, chủ yếu ở Nga, một số nước Ả rập và Đông Á, được nhà nước và các giới tư bản có tinh thần dân tộc bảo trợ. Ví dụ ở Nga, như một số hồ sơ tiết lộ, thông qua những tập đoàn mà nhà nước có cổ phần lớn hoặc các tài phiệt thân hữu với tổng thống, một số tiền đáng kể dùng để mua tranh từ nước ngoài, sắm các nhạc cụ đắt tiền, đầu tư các bộ phim chuyển thể từ các kiệt tác văn học Nga, tạo điều kiện cho những nghệ sĩ có xu hướng dân tộc được phát triển. Ở Việt Nam, thực tế cho thấy, ngay từ khi giành độc lập, giới văn nghệ sĩ mặc dù vẫn đi theo xu hướng chung của khối là hiện thực xã hội chủ nghĩa, nhưng vẫn có không ít những nghệ sĩ sớm nhận ra “mỏ vàng” truyền thống dân tộc, mà người khai thác thành công nhất là Nguyễn Tư Nghiêm. Còn nói về bảo trợ nghệ thuật, thời bao cấp các nghệ sĩ sống chủ yếu nhờ vào tiền lương hoặc ít nhiều trợ cấp từ nhà nước. Nhưng sau khi Đổi mới, các nghệ sĩ phải sống nhờ vào thị trường. Mà thị trường thì lại liên quan đến truyền thông và thị trường quốc tế, nơi giới tinh hoa tư bản đế quốc kiểm soát. Đừng vội vui mừng khi Việt Nam có những họa sĩ đương đại có giá tranh cao ngất ngưởng. Đó có thể là những vụ đầu cơ khiến cho nền nghệ thuật của chúng ta trở nên suy yếu. Hiện nay ở Việt Nam, nhà nước cũng như giới tư bản mới nổi đều chưa thấy được tầm quan trọng trong việc bảo trợ cho nghệ thuật theo hướng phát huy mã gien dân tộc mình. Trong khi, giới chóp bu tài phiệt đế quốc dùng nghệ thuật như một phương cách để tô vẽ bản thân và mua chuộc giới trí thức các nước bằng những khái niệm mỹ miều như “tự do”, “phong cách mới”, “đương đại”... và giới tinh hoa nước ta vẫn chưa ý thức được vai trò của nghệ thuật đối với mô hình chính trị kinh tế mà họ đang được hưởng lợi. Hồ sơ giải mật của CIA mới đây đã tiết lộ về những điệp vụ bảo trợ, nâng giá, quảng bá cho các họa sĩ biểu hiện trừu tượng Mỹ như Pollock, Rothko trở thành những sản phẩm ưu việt của Mỹ so với các tác phẩm hiện thực xã hội chủ nghĩa “tù túng” ở Liên Xô. Với tiền sự như vậy, ta có cơ sở để tin rằng giới tài phiệt tinh hoa quốc tế đang muốn kiểm soát và định hướng tư tưởng, nghệ thuật của các dân tộc bằng những quỹ đầu tư, giáo dục, đào tạo, văn hóa của họ. Đó có thể chỉ là một cuộc tranh giành để phân chia vùng ảnh hưởng, nhưng cũng có thể là một cuộc chiến sát ván. Các dân tộc khác và Việt Nam nên chuẩn bị cho những tình huống xấu có thể sẽ xảy ra. Trách nhiệm đó không chỉ là của các nghệ sĩ mà còn là của các nhà quản lý và các doanh nghiệp có tinh thần dân tộc.

*

Đối với người nghệ sĩ, việc lựa chọn giữa sự bứt phá sáng tạo ra những đặc tính cá nhân nổi trội của mình với lưu giữ và phát huy những giá trị của truyền thống cộng đồng, giữa phát triển phong cách cá nhân với tạo dựng bản sắc tập thể, cái nào quan trọng hơn? Câu trả lời tùy thuộc vào mỗi người, nhưng đối với những nghệ sĩ ở những nền nghệ thuật chưa có nhiều thành tựu đỉnh cao, như Việt Nam chẳng hạn, thì bản sắc tập thể là một lựa chọn đáng để cân nhắc. Việc cùng nhau tạo ra một sắc thái, phong cách, hay mã gien nghệ thuật của dân tộc và cộng đồng mình có ý nghĩa rất quan trọng. Một con sư tử được coi là chúa của khu rừng chỉ khi trước hết giống loài của nó thống trị khu rừng. Chúng ta đã từng có một Nguyễn An, kiến trúc sư tham gia xây dựng Tử Cấm Thành, hay Đặng Thái Sơn chơi piano đẳng cấp hàng đầu thế giới, nhưng nếu nền kiến trúc và âm nhạc Việt Nam vẫn còn mờ nhạt khi so với các nền kiến trúc và âm nhạc khác, thì Nguyễn An, Đặng Thái Sơn không thể được thế giới ghi nhận bằng Kenzo Tange hay Sviatoslav Richter. Người ta đánh giá một con người không chỉ ở bản thân con người ấy mà còn cả cái cộng đồng xung quanh và truyền thống con người ấy được thừa kế.

V.H  
(TCSH359/01-2019)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...