NGUYỄN QUANG HÀ
Bút ký
“Chiều Quảng Thái” - Ảnh Trường Giang
Quảng Thái là một xã nằm bên bờ phá Tam Giang thuộc huyện Quảng Điền. Mỗi lần nhắc tới Quảng Thái là tôi lại nhớ ngay lần đầu tiên về Quảng Thái vào năm 1970. Giao liên dẫn tôi từ làng Đồng Lâm về muộn nên không phải nằm chờ bên ngoài bờ rào ấp chiến lược mà vào ngay nhà mẹ Tư thôn Trằm ngang. Nhóm du kích đang đợi mẹ cho cơm ăn sáng để ra hầm bí mật. Bữa cơm gạo thì ít sắn độn thì nhiều.
Mẹ đơm cơm cho tôi, dù đây là lần đầu gặp mặt, nhưng mẹ cũng gọi con như đã sống với nhau lâu ngày. Tôi hỏi mẹ:
- Bây giờ mẹ mong gì nhất? Mẹ nói:
- Mẹ chỉ mong các con đánh thắng giặc Mỹ, thống nhất nước nhà. Hòa bình ăn cháo cũng cam.
Mẹ và chúng tôi cùng một mong ước, một khát vọng hòa bình.
Câu ca dao xưa: “Ai ơi bưng bát cơm đầy/ Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần” đã nói lên nỗi gian truân, vất vả của nhà nông, nhưng nông dân Việt Nam trong chiến tranh càng gian lao, chật vật, khó khăn hơn nhiều.
Bom đạn, dồn dân, làm đồng ruộng hoang vu. Quảng Thái cũng trong tình trạng ấy. Bãi cát trắng phau hầu như không có cây mọc. Lần ấy, tôi về nằm hầm bí mật dưới cát, ban trưa nắng, nóng như điên. Bên cạnh là bình tông nước và vắt cơm sống cho qua ngày, đêm lại lên hầm đi hoạt động… Nhân dân đã nuôi giấu cán bộ, bền lòng một tình cảm khắng khít thương yêu.
Hòa bình lập lại, xã Quảng Thái được phong tặng hai danh hiệu anh hùng: Anh hùng Lực lượng vũ trang và Anh hùng Công an nhân dân.
Để ổn định đời sống nhân dân, năm 1983, tỉnh (đưa bộ đội về rất đông cùng nhân dân) đã đắp đập Lát ngăn mặn và giữ nước ngọt cho 9 xã của cả Phong Điền và Quảng Điền. Đập dài 4km, 2km nằm ngay trên mặt phá. Mặt đập rộng 3 mét. Bởi đập nằm gọn trong đất xã Quảng Thái nên riêng xã có tới 325 ha được hưởng ưu ái của đập này. Và đời sống của dân trong xã Quảng Thái có ổn định hơn.
Do tuổi cao, sức khỏe kém, đã lâu lắm tôi chưa về thăm Quảng Thái. Nhưng có một lần anh Nam về thăm tôi, đúng lúc cậu em tôi bị bệnh tim (tim đập nhanh, nóng rừng rực, đau ngực). Lập tức anh Nam đi mua một gói thuốc bột cho em tôi uống. Một tuần sau, tim em tôi hết nóng, trở lại nhịp đập bình thường. Tôi hỏi anh Nam: - Thuốc mua ở đâu mà tốt thế?
Anh Nam đáp: - Đó là bột mướp đắng của Quảng Thái…
Tôi gặp lại Quảng Thái một cách tình cờ như vậy, nên chỉ gọi tên Quảng Thái cũng làm cho lòng tôi rung rinh. Vậy là hai anh em chúng tôi chuyện không dứt. Anh Nam kể tôi nghe đất cát ngày xưa thời tôi ở chỉ có cây tràm dầu, bây giờ dân Quảng Thái lập trang trại trồng đủ mọi cây như: nghệ, ớt, thuốc lá, ném, khoai lang mỡ,… Mướp đắng là một trong những đặc sản ấy. Tự nhiên tôi thèm về thăm lại Quảng Thái xiết bao. Gặp Hùng, bạn tôi ở Quảng Điền, tôi ngỏ ý muốn về lại mái nhà Quảng Thái xưa, Hùng nhiệt tình giúp.
Hùng bảo:
- Tôi sẽ đưa anh về thăm Quảng Thái, nơi ấy giờ có 46 hộ dân làm trang trại với diện tích 210,6 ha. Báo tin cho anh vui: Quảng Thái và Quảng Điền sắp được công nhận là nông thôn mới rồi.
![]() |
Ảnh Trường Giang |
Cuộc đi thăm ấy của tôi được thực hiện. Hùng cho xe lên tận Huế đưa đón tôi. Đường qua Sịa, qua Quảng Lợi và mấy địa điểm nữa là đến Quảng Thái. Xưa là đường đất đỏ, nay đường từ huyện về thôn, xã… đã được đúc xi măng, rộng rãi, xe ô tô dễ dàng đi lại. Nhà hai bên đường không còn mái tranh nào, toàn nhà gạch, mái ngói. Khang trang và hoành tráng nhất là khu nhà các trường học, trạm xá, chợ Nịu.
Đến trường Cấp 1 Quảng Thái, đúng giờ học sinh ra chơi, vui quá, Hùng đưa tôi vào thăm. Anh Cho - hiệu trưởng ra đón chúng tôi, câu chuyện bên ly nước trà ngon, khá hào hứng. Tôi muốn biết nhiều hơn về trường nên đã hỏi anh Cho:
- Trường mình có tất cả bao nhiêu học sinh? Anh Cho đáp:
- Tất cả có 324 em. Tôi hỏi tiếp:
- Học sinh xã mình học giỏi không? Anh Cho tự hào trả lời tôi:
- Bậc Tiểu học có 5 học sinh đạt giỏi cấp tỉnh và 28 em đạt giỏi cấp huyện (về bộ môn Cờ vua, Vẽ tranh và Viết chữ đẹp). Học sinh Trung học cơ sở đạt 18 giải: 1 giải nhất, 1 giải nhì, 3 giải ba, 13 giải khuyến khích về môn Toán, môn Tiếng Anh cấp huyện. Nói chung các em học sinh Quảng Thái rất chịu thương chịu khó và rất chăm học.
- Có em nào không đi học hoặc bỏ học không anh?
- Không có em nào trong độ tuổi đi học mà không đến trường cả. Có rất ít trường hợp định bỏ học (do hoàn cảnh như em Hồ Thị Di: cha mẹ bỏ nhau, đi làm xa, Di phải ở với bà ngoại, già yếu, mắt kém) nhưng nhà trường chúng tôi đã kịp thời đến tận nhà giải thích, tạo mọi điều kiện: tìm học bổng, cho sách, miễn giảm học phí,… vậy là các em đi học lại. Điều đáng nói là anh chị em cựu chiến binh và phụ nữ xã, luôn sát cánh cùng trường khi chúng tôi kêu gọi giúp học sinh gặp khó khăn…
Quanh chuyện giáo dục thế hệ trẻ, các anh cho tôi biết thêm một quy định quan trọng gồm 5 không, 3 có của Cựu chiến binh và 5 không 3 sạch của Phụ nữ Quảng Thái. 5 không 3 có của Cựu chiến binh là: gia đình không có tội phạm, không có tệ nạn xã hội, không có vi phạm pháp luật giao thông, không có con cháu thất học, không sinh con thứ ba. Ba có gồm: có thu nhập bình quân với quy ước của khu vực, có việc làm thường xuyên, mỗi chi hội có một đoạn đường xanh - sạch - đẹp. Chị em Phụ nữ thì 5 không, 3 sạch. Đó là: không đói nghèo, không có người vi phạm pháp luật, không bất bình đẳng giới, không vi phạm chính sách dân số, không để trẻ em suy dinh dưỡng. Và 3 sạch là: sạch nhà, sạch bếp, sạch ngõ.
Những “không”, “có” ấy của các anh chị trở thành - không, có - của xã hội làm cho Quảng Thái ngày càng giàu mạnh lên.
Sau đó, Hùng đưa tôi vào thăm chợ Nịu. Một xã nhỏ thôi mà chợ có tới 180 quầy hàng. Quầy nào cũng đẹp đẽ, rạch ròi, đầy hàng, đường đi trong chợ khá thông thoáng. Người đi mua hàng đông đúc, nhộn nhịp. Nhìn gương mặt chợ, đủ thấy đời sống Quảng Thái no ấm, giàu có và bình yên. Đi trong chợ, chúng tôi rất xúc động. Hùng cho tôi biết: Quảng Thái có hơn 5000 dân với 1468 hộ có đầy đủ diện, nước để dùng. Năm 2010 Quảng Thái có 228 hộ nghèo, năm 2020 này chỉ còn 121 hộ; trong đó 71 hộ thuộc bảo trợ nhà nước, vậy là xã chỉ còn 50 hộ nghèo, chiếm 3,4% số hộ của xã mà thôi. Một số liệu không thể bỏ qua: năm 2011 thu nhập của người dân bình quân 11 triệu đồng, năm 2020 này thu nhập đầu người đạt 36 triệu đồng, thế đứng và bước đi của Quảng Thái thật vững vàng.
Điều tôi quan tâm là sức khỏe của người dân Quảng Thái, Hùng đưa tôi vào thăm Trạm Y tế. Trưởng trạm Hồ Viết Hy dẫn chúng tôi vào phòng. Tôi hỏi:
- Sức khỏe của dân được chăm sóc như thế nào, anh Hy?
Anh Hy tâm sự:
- Năm 2019 Trạm chúng tôi chỉ 7 nhân viên, chưa có bác sĩ (ban đầu có nhưng bị điều đi nơi khác) đã khám sức khỏe cho 4375 người dân và chữa bệnh cho 3439 bệnh nhân. May là xã có công trong chiến tranh và là xã nghèo nên người dân trong xã đều có thẻ bảo hiểm. Nếu bệnh nặng, trạm xá chuyển lên ngay Trung tâm y tế huyện, hoàn toàn không mất tiền.
Đúng lúc, có một bệnh nhân tới, đưa bảo hiểm ra, anh Hy ký giấy chuyển bệnh nhân xuống phòng khám. Một lúc sau, bệnh nhân lên đưa đơn thuốc, anh Hy ký và bệnh nhân đi nhận thuốc rồi ra về.
Anh Hy nói tiếp:
- Một xã hai lần nhận danh hiệu Anh hùng cũng xứng đáng được Nhà nước quan tâm chứ anh. Điều Quảng Thái đang mong muốn nhất là có một bác sĩ cho dân nhờ.
Ở Trạm xá ra, chúng tôi vào Văn phòng ủy ban xã. Anh Phước, Phó Chủ tịch Ủy ban đón chúng tôi rất vui vẻ nhiệt tình. Tôi tỏ ý muốn đi thăm một số trang trại. Anh Phước đồng ý ngay. Anh lên xe đưa chúng tôi thăm trang trại anh Thành, anh Tuấn và anh Lực.
Trang trại anh Thành rộng 15 ha, trồng đủ loại cây: ớt, thuốc lá, khoai lang mỡ, ném, đậu,… đặc biệt nhất là những ngôi lều anh trồng nấm. Nấm mọc ra trắng toát từ những bọc mùn cưa treo thành hàng, nhìn ưa mắt. Anh Thành bảo nấm ra bao nhiêu, bán hết bấy nhiêu. Có lẽ vì thế mà nhân viên giúp việc cho anh nói cười rúc rích trong lều…
Trang trại của anh Tuấn cũng rộng 15 ha, trồng những cây thuốc Đông y như: Sâm cau đen, Sâm bố chánh, Sa nhân, Kim tiền thảo, Nhân trần cát, Ba kích tiến,… Anh Tuấn đi vắng, người giúp việc là em Hào, Hào nói cây cối chưa thu hoạch nhưng đã có người đến đặt hàng.
Trang trại của anh Lực, ngoài nhiều cây trồng quen thuộc, là một trang trại chăn nuôi gà. Mỗi năm anh Lực bán ra thị trường 2 lứa gà, mỗi lứa từ 6000 đến 8000 con.
Trang trại thứ tư mà anh Phước dẫn chúng tôi đến thăm là trang trại rộng 5 ha, trồng mướp đắng của anh Nhật. Mướp đắng ở đây được chăm sóc kỹ, các quả mướp được đặt trong túi ni lông, đạt tiêu chuẩn Việt GAP. Tôi hỏi anh Nhật:
- Ai là người đi tiên phong trong việc trồng mướp này?
Anh Nhật đáp:
- Ông Hoàng Tấn anh ạ. Ông Tấn đi bộ đội, khi nghỉ, về một làng ở Hương Trà. Làng này trồng mướp đắng, quả sấy khô, làm thuốc chữa tim mạch và mỡ máu. Ông xin giống về trồng thử, thành công. Giờ ông già yếu rồi, nằm một chỗ, nhưng là ông tổ nghề trồng mướp đắng ở Quảng Thái này.
Từ những trang trại chúng tôi vừa ghé thăm, cộng với dư luận quần chúng, rõ ràng Quảng Thái đã thực hiện một cuộc cách mạng về đất đai.
Tôi hỏi anh Nhật:
- Anh có thể cho tôi biết những ai là người khởi xướng đưa giống cây nông nghiệp lên trồng trên đất cát?
Anh Nhật đáp:
- Duy có ông Hoàng Tấn trồng cây mướp đắng thì tôi biết, còn các cây khác, khi tôi lớn lên đã thấy cha mẹ trồng, rồi tôi trồng theo thôi anh ạ.
Về lại Ủy ban xã, tôi hỏi anh Phước:
- Cải tạo được đất đai là tốt rồi, song còn nghề trồng lúa của Quảng Thái thì ra sao?
Anh Phước đáp:
- Quảng Thái đã thành công mô hình cánh đồng mẫu vùng ô ruộng 773 với 34 ha đạt năng suất 70 tạ/ ha và vùng ruộng ở Bắc Biên 40 ha đạt năng suất 60 tạ/ ha, 739 ha còn lại đạt năng suất 50 tạ/ ha. Tổng sản lượng lúa thu hoạch năm nay là 4.112 tấn. Quảng Thái đã có máy bơm nước, máy cấy lúa, từng bước hiện đại hóa nông nghiệp, vậy nên thu nhập 36 triệu đồng cho mỗi người dân thật là điều đáng kể… Chưa đi khắp những cánh đồng Quảng Thái, chưa đi vào những ngóc ngách của Quảng Thái, song trong thâm tâm tôi nghĩ rằng đội ngũ cán bộ xã phải rất giỏi mới giúp Quảng Thái trở thành xã phát triển mạnh mẽ như vậy.
Tôi hỏi anh Phước:
- Anh Bảo Chủ tịch xã trình độ văn hóa thế nào? Anh Phước tỏ ra tin cậy:
- Anh Bảo là một kỹ sư. Anh Bảo là Chủ tịch giỏi đã đành. Anh biết không, 22 công chức của Quảng Thái thì 19 người đã có bằng Đại học trong tay, 3 người còn lại đã qua trường Cao đẳng. 12 cán bộ bán chuyên trách của xã thì cũng 11 người đã qua Đại học.
Mừng quá, tôi nhào tới bắt tay anh Phước:
- Sở học cộng với cái tâm của các cán bộ nhân viên xã, Quảng Thái phát triển mạnh là điều chắc chắn. Tôi tin Quảng Điền và cả Quảng Thái sẽ được nhà nước công nhận là những đơn vị nông thôn mới. Từ ngày thăm Quảng Thái về lại Huế, lòng tôi rất vui mừng tự hào, Quảng Thái hai lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng là rất tuyệt vời.
N.Q.H
(SHSDB38/09-2020)
PHAN THỊ THU QUỲ(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)
LÊ KHAI Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ. Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.
HÀ KHÁNH LINH Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!
TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.
TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.
NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.
PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước vào đời.
NGUYỄN VĂN VINH Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.
TRẦN HOÀI Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...
LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.
NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.
TỐ HỮU Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời
VÕ MẠNH LẬP Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.
NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.
TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.
HOÀNG QUỐC HẢI Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.