Về tập sách "Thừa Thiên Huế trong cơn Đại hồng thủy 1999"

09:59 15/03/2010
THỦY THANHCơn đại hồng thủy đầu tháng 11 năm 1999 được coi như "bản tổng kết thủy tặc" đầy bi tráng của thiên nhiên trong thế kỷ 20 đối với mảnh đất Thừa Thiên Huế. Nó đã gây ra nỗi kinh hoàng, đau thương, mất mát to lớn và cũng để lại không ít những hệ lụy nặng nề cho con người ở nơi đây. Và cũng chính nó - cơn lũ chưa từng có này - đã đi vào lịch sử.

Thoạt đầu, những người làm báo, với thiên chức nghề nghiệp, họ đã xông xáo, đã "đồng hành" với cơn lũ để ghi lại những gì tai nghe mắt thấy. Dù kịp thời, dù sinh động nhưng những cảm xúc "tươi sống" về cơn lũ qua kênh báo chí cũng chỉ mang tính thời sự và nhất thời giống như con thuyền đi qua sông không để lại dấu vết. Bởi vậy, tiếp đó, lại đến lượt cần những người làm sách, làm sử ra tay "truy cập" phần cốt lõi của vấn đề vào bộ nhớ thời gian. Việc làm sách thời buổi nhiều "nhạy cảm" này cũng thật nhiêu khê, nhiễu sự. Người vô tư, kẻ cơ hội đều có thể nhảy ra "lái sách" theo theo mục đích, ý đồ của mình...

Song, dù sao thì cuối cùng, cái gì hợp lý sẽ tồn tại và cuốn sách "Thừa Thiên Huế - Cơn đại hồng thủy 1999" do tạp chí Sông Hương và Sở Văn hóa Thông tin phối hợp biên soạn đã ra đời. Đây là một công trình có chiều kích, có qui mô đáng kể về hình thức lẫn nội dung. Với sự tham gia của trên 100 tác giả gồm các nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ nhiếp ảnh từ Trung ương đến địa phương, tập sách đã phản ánh được một phần không khí và những diễn biến về cơn lũ. Gần 60 bài bút ký, ghi chép, trên 50 bức ảnh và mảng sáng tác gồm 12 bài thơ cùng với 4 ca khúc đã nâng độ dày tập sách lên trên 350 trang in khổ 16 x 24. Kết cấu tập sách cũng phân ra từng mảng như hiện trạng cơn lũ, tình người trong cơn lũ, khắc phục hậu quả sau lũ...

Điều đáng tiếc là tập sách đã không làm được những điêù như tiêu chí của nó được nêu ra từ đầu. Tiêu chí ấy là gì? Khi ý tưởng làm sách tư liệu về cơn lũ giữa tạp chí Sông Hương và Sở Văn hóa Thông tin vừa gặp nhau thì cũng là lúc tạp chí Huế Xưa và nay "dâng sớ" lên tỉnh xin xuất bản một ấn phẩm tương tự. Ở đây, điều này cũng đúng như người đời từng kháo là những tư tưởng vĩ đại gặp nhau! Song, không tiện và không nên cùng một lúc, lại là lúc khó khăn hoạn nạn, nhà nước và nhân dân lại phải bỏ tiền ra in 2 cuốn sách trùng lặp nhau về những thông tin nguội. Vậy nên tỉnh đã kịp thời chỉ đạo cuốn sách do tạp chí Sông Hương và Sở văn hóa Thông tin hợp tác phải là cuốn sách sáng tác mang đặc trưng ngôn ngữ văn học, ngôn ngư hình tượng. Cũng có nghĩa là những gì thuộc về sự kiện, ngôn ngữ sự kiện thì để cho tạp chí Huế xưa và nay làm. Về tiền bạc, tỉnh cũng đã đầu tư cho cuốn sách sáng tác gấp rưởi cuốn sách sưu tầm. Vậy là "lãnh địa" và tiêu chí của mỗi quyển sách đều rõ ràng. Nhưng do điều kiện thời gian eo hẹp, gấp gáp nên rốt cục, cuốn sách do Tạp chí Sông Hương và Sở văn hóa thông tin cùng đứng tên xuất bản đã không làm được như nói. Đứng về quan niệm làm sách mà xét thì cả tập sách chỉ được một số ít bài phù hợp, viết nghiêm túc, công phu, mang dáng dấp cấu trúc tác phẩm. Còn lại phần lớn là "mì ăn liền", viết rời rạc, dễ dãi. Trên 90% bài vở được dùng lại từ những bài báo đã in rải rác đây đó. Nếu nói về giá trị tư liệu thì cuốn sách này còn thiếu mà nói nói về giá trị nghệ thuật thì cuốn sách lại chưa đạt.

Tuy không được như mong muốn nhưng dù sao thì trong điều kiện cụ thể này, có vẫn hơn không và cuốn sách cũng đã được "trình làng". Tùy cơ duyên, tùy mức độ, nó vẫn có thể có ích cho một ai đó, một lúc nào đó.`

T.T
(133/03-2000)



 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • 1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).

  • (Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.

  • Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.

  • Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)

  • Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".

  • Nhà thơ Trinh Đường đã từ trần hồi 15g10’ ngày 28.9.2001 tại Hà Nội, thọ 85 tuổi. Lễ an táng nhà thơ đã được tổ chức trọng thể tại quê nhà xã Đại Lộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng , theo nguyện vọng của nhà thơ trước khi nhắm mắt.

  • Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).

  • Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.

  • Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.

  • Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...

  • Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.

  • LTS: Rạng sáng ngày 11-7-2001, Toà soạn nhận được tin anh Đoàn Thương Hải - hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, sau một cơn đột quỵ, mặc dù đã được gia đình, bạn bè và các thầy thuốc Bệnh viên Trung ương Huế tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi, đã rời bỏ chúng ta an nhiên về bên kia thế giới!Tạp chí Sông Hương - Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế xin có lời chia buồn sâu sắc tới gia quyến nhà văn.Sông Hương số này xin giới thiệu hai bài thơ cuối cùng của anh được rút ra từ tập thơ chép tay lưu giữ tại gia đình.TCSH

  • Thơ Đặng Huy Giang xuất hiện trên thi đàn đã nhiều năm nay; song thật sự gây ấn tượng với bạn đọc phải kể đến một vài chùm thơ mà báo Văn nghệ đăng tải trên trang thơ dự thi 1998 - 2000; đặc biệt sau đó anh cho ra mắt bạn đọc hai tập thơ một lúc: Trên mặt đất và Qua cửa.

  • Có lẽ với phần lớn không gian thơ Phan Trung Thành, làm thơ là trò chuyện ân tình với những bóng dáng cũ, thuộc về quê nhà.

  • Trong bài viết điểm lại văn học năm 2000, sự kiện và bình luận, tôi có nêu hai tác giả trẻ, cùng là nữ, cùng có tác phẩm đáng chú ý trong năm, một người tập truyện, một người tập thơ. Người thơ là Vi Thùy Linh.

  • (Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp:            “Những lo toan năm tháng đời thường            Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”

  • đầu tháng 4 năm ngoái, sau khi tuần báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam đăng truyện ngắn dự thi “Quả đồng chùy tóc bện” của Trần Hạ Tháp - một bút danh “mới toanh” trên văn đàn, tôi ghé tòa soạn “Sông Hương” hỏi nhà văn Hà Khánh Linh:- Chị biết Trần Hạ Tháp là ai không? Tác giả chắc là người Huế...

  • Trương Văn Hiến có sở học phi thường và mang trong người một hoài bão lớn lao: an bang tế thế bình thiên hạ.

  • (Qua “Sau tách cà phê” của Nguyễn Trác, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000.)1- Sau năm năm từ “Chiếc thuyền đêm” (năm 1995), hình như  “đến hẹn lại lên”, nhà thơ Nguyễn Trác lại ra mắt bạn đọc tập “Sau tách cà phê”.

  • Thơ là một bức xúc của tình cảm và tư tưởng con người, buộc con người phải diễn ra bằng ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc, đường nét, hình khối. Thơ là đòi hỏi, là nhu cầu của con người, nếu không biểu lộ được ra thì còn bức rứt khổ sở.