Về mỹ học vận động trong phê bình văn học

17:09 04/02/2009
NGUYỄN DƯƠNG CÔNPhê bình văn học là một hình thái vận động của đời sống văn hóa văn học. Nó không phải là một thể loại văn học. Nó gắn bó huyết mạch tất yếu với vận động sáng tạo - hưởng thụ văn học.

Nó chỉ sinh trưởng trong không gian tâm lý hưởng thụ dẫu có gây tác động mạnh mẽ đến mấy tới không gian tâm lý sáng tác văn học. Nó chỉ có sứ mạng khám phá thế giới hình tượng văn học trong tư cách là tác phẩm văn học hoàn chỉnh hoặc tương đối hoàn chỉnh. Cũng giống như thế giới hiện thực nhưng thế giới hình tượng văn học lại chỉ cấu trúc bằng ngữ nghĩa ngôn từ vừa hấp dẫn, quyến rũ cảm giác vừa kích thích nghĩ suy cho kẻ hưởng thụ. Chính cái tình thế cảm nghĩ đó làm cho kẻ hưởng thụ tất yếu trở thành kẻ sáng tạo theo của tác phẩm văn học. Nhưng suy cho cùng, trong toàn bộ lịch sử đời sống văn hóa văn học, chẳng có ai lại là kẻ tuyệt đối đọc-sách-một-mình. Nhu cầu trao đổi cảm nghĩ từ tác phẩm văn học tất yếu nảy sinh. Nhu cầu đó, tình thế đó trong không gian tâm lý hưởng thụ văn học đã nảy sinh ra hoạt động và sản phẩm sáng tạo mang tên là phê-bình-văn-học.

Phê bình văn học được sáng tạo theo quy luật của cái Đẹp. Cơ cấu tổng thể cấu trúc ngôn ngữ ngôn từ thành văn miêu tả tổng thể hệ thống quy luật của cái Đẹp, người ta gọi nó là Mỹ học. Như vậy, có thể hiểu một cách giản dị Mỹ học là khoa học khám phá quy luật của cái Đẹp. Quy luật của cái đẹp trong phê bình văn học với tư cách không có ý thức cư xử, vận dụng nó thì quy luật đó không (hay đúng hơn là chưa) thuộc về vận động của phạm trù mỹ học. Chỉ có quy luật của cái đẹp đã chuyển hóa thành quan niệm-nhận thức- chuyển hóa làm nên tư thế tự giác trong cư xử, vận dụng nó mới thuộc về vận động của phạm trù mỹ học trong phê bình văn học. Như vậy, quan tâm đến mỹ học vận động trong phê bình văn học, về nguyên tắc là quan tâm đến hoạt động ứng xử các quy luật thành văn mỹ học dành cho sáng tạo phê bình văn học. Nói mỹ học vận động trong phê bình văn học, về nguyên tắc đã là sự chuyển hóa tới cấp độ thành văn - bác học của phê bình văn học. Phê bình văn học thành văn - bác học phải là cấu trúc tổng thể ngôn ngữ ngôn từ thành văn - cơ bản và chủ yếu phải đã được kinh nghiệm hóa ngữ nghĩa - dành riêng cho khoa học về văn học. Chúng ta gọi nó theo thói quen thông thường là phê-bình-văn-học với ý nghĩa nó phải cấu thành bằng các tác phẩm văn - bác học hoàn chỉnh. Cố nhiên với ý nghĩa đó, với nguyên tắc đó, những mệnh đề định trị, những câu truyền miệng, phát biểu, trả lời phỏng vấn riêng lẻ về tác phẩm văn học, dù có ảnh hưởng đến đâu trong không gian hưởng thụ văn học cũng không thể là tác phẩm, không thể là một trong những “thể loại” của phê bình văn học.

Phê bình văn học không phải là một chuyên môn mỹ học. Vì nó không có sứ mạng khám phá ra tổng thể các quy luật sáng tạo và vận động lịch sử sự nghiệp văn học. Công việc này là sứ mạng của lý luận văn học, đích danh là một chuyên môn của mỹ học. Như vậy, nói phê bình văn học là mỹ học vận động không có nghĩa là quy nó thành một khoa học mà chỉ nhằm nhấn mạnh, khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của mỹ học dành cho vận động sáng tạo phê bình văn học. Sứ mạng khám phá sáng tạo về thế giới hình tượng tác phẩm văn học là sứ mạng duy nhất của phê bình văn học có cấu trúc và vận động nội bộ học theo thi pháp của sự-sống-con-người, trong đó có vận dụng thi pháp tuân thủ quy luật của cái đẹp. Nói: “Con người sáng tạo theo quy luật của cái Đẹp” không có nghĩa quy luật của cái đẹp là quy luật vận dụng duy nhất của sự sống con người. Nói như vậy là nói: “sự lựa chọn tối ưu nhất” và “duy nhất thích ứng tồn tại làm phương thức cơ bản nhất của sinh tồn, phát triển nhân tính. Nói như vậy có nghĩa là vận động sự sống con người, vận động nhân tính “đi kèm” với phương thức của cái đẹp - hài hòa với quy luật tồn tại vật chất - còn có những phương thức phi và phản quy luật của cái đẹp là những phương thức duy bản thể hóa, phi xác định, phi chính xác, phi hài hòa của nguồn năng vận động cảm giác, tình cảm thuần túy và các nguồn năng vận động vô thức khác. Chỉ có thể hình dung đúng đắn và cần thiết về sự sống bản thể con người mới có thể tiến tới hiểu biết đúng đắn và thỏa đáng thế nào là “Con người sáng tạo theo quy luật của cái Đẹp”.

Cũng tương tự như cấu trúc nội bộ tác phẩm văn học, cấu trúc nội bộ tác phẩm phê bình văn học có “sự lựa chọn tối ưu nhất" và “duy nhất thích ứng với đặc thù của thế giới hình tượng tác phẩm văn học”. Trong nhiều phương thức sáng tạo và cấu trúc nội bộ bản thân nó, phê bình văn học “lựa chọn” làm cơ bản nhất, tối ưu nhất phương thức tuân thủ, vận dụng quy luật của cái đẹp, tuân thủ vận dụng mỹ học dành cho hưởng thụ tác phẩm văn học. Nhưng trong khi đồng thời với vận dụng, tuân thủ quy luật cái đẹp, của mỹ học, phê bình văn học vẫn phải say mê, chăm chú “hòa mình vào” thế giới hồn nhiên, đa cảm, “hòa mình vào” trạng thái cảm tính - làm nên đặc thù cơ bản nhất của thế giới hình tượng tác phẩm văn học. Sự “hòa mình vào” đó của phê bình văn học không phải chỉ là đồng cảm thụ động, phiêu lưu phi định hướng mà là sự hòa mình vào chủ động, cố thủ ý thức khám phá mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành trạng thái cảm tính của thế giới hình tượng tác phẩm văn học. Cùng với “sự hoà mình vào” là “sự giãn cách hoá” khám phá định trị những mối quan hệ cảm tính và lý tính trong tác phẩm văn học.

Ở nơi đơn phương ứng xử với trạng thái cảm tính - mơ hồ và đa nghĩa - phê bình văn học còn luôn phải khám phá mối quan hệ giữa trạng thái đó với trạng thái lý tính. Trong ứng xử với trạng thái lý tính, phê bình văn học còn luôn “cảnh giác” lường tính khả năng chính trạng thái lý tính, tự nó sinh ra, gây ám ảnh ra bằng lô-gíc lý tính, một trạng thái cảm tính mơ hồ của nó. Hầu hết các tác phẩm văn học hoàn chỉnh đều dung chứa trong nó vô số chân lý - quan hệ nội bộ - của riêng nó mà phần lớn trong số chúng luôn ẩn kín trong vòng khung bí ẩn mà ngay cả nhà văn - kẻ sáng tạo ra chúng bằng phát động cảm giác trí tuệ, bằng những “tia chớp thiên tài” - cũng không hoặc chưa lý giải kiểm nghiệm hết được. Chính vì thế sứ mạng khám phá - sáng tạo về thế giới hình tượng tác phẩm văn học, sứ mạng hưởng thụ - sáng tạo tiếp theo là sứ mạng vinh quang và không mấy dễ dàng. Chính vì thế sứ mạng hưởng thụ văn học cho đủ tầm, đủ độ nhạy cảm, thông minh là để dành cho những người mang danh vừa cao cả vừa giản dị là “Bạn Đọc Văn Học”. Chính vì thế, cái sứ mạng xứng đáng nhất của “Bạn Đọc Văn Học” đi liền và tiến tới sáng tạo tác phẩm văn chương thành văn bác học miêu tả những khám phá “chỉ cái anh phê bình văn học này - con người này” mới khám phá được, là sứ mạng thiên định cho nhà và cho tác phẩm phê bình văn học.

Trạng thái cảm tính trong tác phẩm văn học được khám phá tất yếu tạo nên một trạng thái cảm tính - được miêu tả bằng lô-gíc lý tính - trong tác phẩm phê bình văn học. Chính vì thế, từ bên trong bao dung tất cả các nội dung là một cái tôi-thụ-lý-trữ-tình-cái tôi đặc trưng của tác phẩm phê bình văn học. Trạng thái cảm tính và trạng thái lý tính gắn liền mật thiết với nhau trong tác phẩm phê bình văn học. Bởi sứ mạng của phê bình văn học là cảm nhận để định trị, nên sự dung hòa hai trạng thái cảm tính và lý tính luôn ở mức độ tương đối thiên lệch cho lý tính làm nên một trạng thái mà người ta tiếp nhận và gọi là thái độ trong phê bình văn học. Tình cảm và thái độ trong phê bình văn học bởi thế là sản phẩm sáng tạo. Chúng là bằng chứng chủ quan hóa độc lập tương đối với sự vận dụng mỹ học trong phê bình văn học. Chính trạng thái tình cảm và thái độ mang đậm dấu ấn cái tôi - cảm - thụ của phê bình văn học khiến người ta dễ lầm tưởng phê bình văn học là một nghệ thuật trong “xã hội” khác nghệ thuật văn học, âm nhạc, hội họa,…

Thực tế, trên thế giới và trong lịch sử không hình thành một bộ môn nghệ thuật nào mang tên là phê bình văn học. Phê bình văn học không phải là một khoa học cũng không phải là một nghệ thuật. Công việc vận dụng khoa học không nên gọi nó là một khoa học, nhất là vận dụng khoa học đó cho khảo sát, cư xử với một đối tượng cụ thể nào đó. Công việc vận dụng tư duy nghệ thuật để cảm nhận một tác phẩm nghệ thuật cụ thể cũng không nên gọi là một nghệ thuật. Tư duy phê bình văn học vừa vận dụng khoa học về văn học (vận dụng lý luận văn học) vừa vận dụng tư duy hình tượng, suy cho cùng chỉ là “kẻ” “đi giữa” hai tư duy đó mà thôi. Nó không được đơn thuần là một trong hai tư duy đó. Hơn thế sự vận dụng hai tư duy đó của nó cũng chỉ để cư xử với một đối tượng cụ thể. Tình trạng giống như một ông thầy thuốc vận dụng khoa y học để chữa một con bệnh nào đó. Công việc chữa bệnh của anh ta không nên gọi nó là một khoa học mà chỉ nên gọi là công việc vận dụng y học để hành nghề mà thôi. Chúng ta nên gọi phê bình văn học là gì? Nên gọi là: Công việc vận dụng mỹ học và vận dụng nghệ thuật văn học để cư xử với một hiện tượng là tác phẩm văn học. Vì vậy, phê bình văn học chắc chắn là một loại công việc, là một thể loại văn-chương-tiểu-luận-tác-phẩm-văn-học thuộc loại hình văn-chương-nghị-luận dành cho hiện-tượng-vận-động-đời-sống các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, nghệ thuật...

Tác phẩm văn học cụ thể là “một cái riêng” không có cái chung văn học nào chứa đựng nổi nó dù có thể chứa đựng nổi cái chung văn học tất yếu và khả dĩ chi phối cơ cấu hình thành nó. Chính vì tác phẩm văn học kiểu con người này chứa đựng những chân lý văn học chỉ tác phẩm đó mới có hoặc chỉ được khám phá lần đầu tiên trong lịch sử hưởng thụ bằng “một cái tôi” nào đó nên mọi chân lý thẩm mỹ tác phẩm đó không thể và không cần hoàn toàn thuộc về cơ cấu tổng thể các qui luật cái đẹp nghĩa là: không phải là cái gì là tinh túy của phê bình văn học cũng là sản phẩm trực tiếp để “nhập kho” mỹ học. Thành ra, hiểu phê bình văn học là một khoa mỹ học là ngộ nhận và mưu toan mỹ học hóa triệt để phê bình văn học là mưa toan nông nổi, đầy nguy cơ trở nên kệch cỡm. Mặt khác cũng phải thấy những năng lực thẩm mỹ học thuần túy dành cho tiếp cận văn học nếu không có “con đường” “không gian” cảm tính đặc trưng mà người ta gọi là năng khiếu, năng lực cảm thụ văn học, chúng cũng không hoặc bị hạn chế nghiêm trọng trong khi sử dụng chúng làm phê bình văn học. Điều này lý giải vì sao có rất nhiều học giả uyên thâm về khoa văn học mà chính họ có vô cùng mong muốn, có dày công cũng không thể làm nổi một tác phẩm phê bình văn học xứng đáng. Suy cho cùng thì tác phẩm văn học đã hoàn tất sự khám phá chính bản thân nó qua sứ mạng khám phá con người theo kiểu riêng của nó. Nhưng như thế không có nghĩa là nó tự dễ dàng và thường trực, lập tức "lộ thiên" những bí mật mà nó khám phá cho mình dấu kín trong "cơ thể" bí ẩn mơ hồ và đa nghĩa của nó. Thành ra, chính những nhà văn thiên tài lại không thể làm nổi một tiểu luận phê bình văn học xứng đáng dành cho tác phẩm thiên tài của anh ta bởi anh ta không đủ lăng kính mỹ-học và cảm thụ cá nhân; "nguy" hơn là anh ta lại thiếu hoặc không có ngôn ngữ thành văn lý luận phê bình văn học cùng các yếu tố nhà nghề khác của phê bình văn học. Và cũng thành ra, mơ ước dẫn đến sự hô hào các nhà văn có bề dày tài năng, tên tuổi, lão làng đi làm phê bình văn học là câu chuyện chứa đầy nguy cơ ảo tưởng, khôi hài.

Văn học không phải là nhà văn. văn học chỉ có thể sáng tạo ra “một nhà văn nào đó” mô phỏng nhà văn - tác giả của nó trong dạng thức hư cấu định mệnh của văn học. Bởi thế phê bình văn học là phê bình...văn học chứ không phải là thứ đem ra phê bình nhà văn. Nói đến lao động nhà văn, nói đến chuyện người, chuyện đời nhà văn trong cơ hội được viết phê bình văn học không phải là "tiếng nói" của phê bình văn học. Nó không phải là “tiếng nói” quyền lực, uy tín trong xã hội các nhà văn, các nhà phê bình văn học, không phải tùy tiện là “tiếng nói” từ “miệng kẻ sang có gang, có thép” nào cả. Ý nghĩa sáng tạo tác phẩm phê bình văn học mới nhạy cảm và nghiệt ngã làm sao! Cái Đẹp cứu rỗi thế giới. Nhưng chúng ta không được phép hiểu rằng, cả tin rằng có cái đẹp từ đâu đến nó cứu rỗi con người mà chúng ta chỉ được phép hiểu rằng: Chỉ có chính chúng ta cứu rỗi bản thân mình, cứu rỗi con người bằng cái Đẹp-nghĩa là bằng phương thức “theo qui luật của cái Đẹp”. Ai đó cả tin có cái đẹp ở đâu đó đến cứu rỗi anh ta thì chúng ta khiêm tốn mách bảo anh ta rằng chẳng ai cứu nổi anh nếu anh không tự cứu mình trước khi Trời cứu. Nói to tát như vậy, chúng tôi chỉ mong gửi gắm hy vọng và những nỗ lực đúng là cần thiết cho sự nghiệp phê bình văn học, trong đó đặc biệt là nền tảng tư tưởng - triết học của đời sống văn hóa văn học hôm nay.
            N.D.C

(nguồn: TCSH số 191 - 01 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?

  • VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.

  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).