Về giá trị nghệ thuật - sự gặp gỡ giữa quan điểm văn nghệ của Hải Triều với lý thuyết tiếp nhận hiện đại

08:45 08/10/2009
TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

Nhà lý luận phê bình văn nghệ Hải Triều - Ảnh: thegioinguoiviet.net

Lịch sử văn học Việt Nam còn ghi nhớ cuộc phê bình luận chiến về duy tâm duy vật, nghệ thuật vị nghệ thuật (*) vị nghệ thuật vị nhân sinh diễn ra cách đây 70 năm. Đó là lúc văn học nước ta chuyển qua một bước ngoặt với sự xuất hiện hàng loạt sáng tác của các nhà văn đã có những cách tân táo bạo so với những kinh nghiệm nghệ thuật truyền thống, nhất là trong lĩnh vực thơ ca và tiểu thuyết. Và cùng với sáng tác, là sự xuất hiện của những nhà phê bình đồng quan điểm tư tưởng - xã hội và quan điểm thẩm mỹ đã đóng vai trò tiên phong phát ngôn cho một hệ thống nguyên tắc sáng tạo mới. Họ bác bỏ những nguyên tắc đã và đang sáng tạo mà họ cho đã lỗi thời, phi nghệ thuật để đi đến một tuyên ngôn dường như thống nhất “văn chương là văn chương”, “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Đó cũng là lúc bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều sáng tác của các nhà văn theo khuynh hướng “tả thực” đi sâu phản ánh thực trạng của xã hội, qua đó mà phơi bày sự bất công, đen tối của chế độ thực dân nửa phong kiến.

Đặc biệt, kế thừa truyền thống văn thơ yêu nước đầu thế kỷ, cũng đến những năm 30 của thế kỷ XX, sáng tác của những nhà văn cách mạng đã tập trung phản ánh về những vấn đề nóng hổi, bức xúc của đời sống xã hội trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hoá, giáo dục lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động chống thực dân và phong kiến. Bảo vệ và khẳng định giá trị của sáng tác văn học theo khuynh hướng “tả thực”, nhất là “tả thực xã hội”, các nhà phê bình đứng trên quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh” đã kịch liệt phê phán quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật”, đòi tách văn học ra khỏi cuộc sống chính trị - xã hội, coi nghệ thuật là cứu cánh của sáng tạo nghệ thuật. Nổi bật trong số đó là Hải Triều - nhà phê bình tiên phong của Đảng trên mặt trận văn nghệ.

Đánh giá vai trò của Hải Triều trong cuộc bút chiến với phái “nghệ thuật vị nghệ thuật”, đồng chí Trường Chinh đã khẳng định: “Công lao của đồng chí Hải Triều đáng cho chúng ta ghi nhớ. Cố nhiên với trình độ ngày nay nếu ta xem lại những bài ấy có thể ta thấy còn sơ lược. Nhưng ở trình độ và hoàn cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, trong những cuộc bút chiến có những bài như đồng chí Hải Triều là xuất sắc. (nhấn mạnh T.T.H). Những bài đó trên một mức độ nhất định đã làm sáng tỏ quan điểm giai cấp của Đảng trong văn học, nghệ thuật” (2)

Đứng trên quan điểm lịch sử, đồng chí Trường Chinh đã đánh giá đúng mực về những đóng góp của Hải Triều không chỉ thể hiện trong lĩnh vực văn nghệ, mà ngay trong lĩnh vực triết học, chính trị, xét ra cũng như vậy. Sau này, khi triết học và lý luận văn học mác xít đã trở thành tư tưởng chính thống, công khai phát huy ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội và nghệ thuật thì nhìn lại những quan điểm của Hải Triều trước đó mới chỉ là những nhân tố và không tránh khỏi đôi chỗ “sơ lược”, nhưng xét trong hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của xã hội nước ta vào những năm 30 của thế kỷ XX, khi mà việc dịch thuật và truyền bá chủ nghĩa Mác trong điều kiện tư liệu còn hết sức hạn chế, việc vận dụng thế giới quan vô sản và quan điểm của Đảng vào phê bình văn nghệ luôn bị chế độ cũ kiểm duyệt một cách khắt khe thì những bài viết về triết học và văn học của Hải Triều lúc đó quả là những đóng góp xuất sắc.

Ngày nay đọc lại di sản lí luận văn nghệ của Hải Triều, bên cạnh những vấn đề còn giữ nguyên giá trị cần được kế thừa và phát triển, cũng có những vấn đề cần đổi mới về quan điểm và nhận thức cho phù hợp với sự đổi mới của thời đại và thực tiễn văn học. Sự kế thừa và đổi mới, đó là lẽ thường và hiển nhiên. Nhưng nhìn chung, những gì mà Hải Triều đã bàn về nghệ thuật cách đây hơn nửa thế kỷ, từ nguồn gốc, bản chất, quy luật phát triển của nghệ thuật đến đặc trưng và chức năng xã hội của nó, từ vấn đề tự do sáng tác của nghệ sĩ đến nội dung và hình thức của tác phẩm, từ khuynh hướng sáng tác đến lập trường, quan điểm trong phê bình đánh giá nghệ thuật...v.v...” về cơ bản là đúng đắn và là những viên ngọc quý trong kho tàng văn nghệ của nước ta, đáng được chúng ta trân trọng nghiên cứu” (3).

Nói về giá trị nghệ thuật mà tập trung chủ yếu ở chỉnh thế tác phẩm, mãi đến nửa sau của thế kỷ XX, do sự tác động mạnh mẽ của đời sống văn học và ảnh hưởng của lý thuyết tiếp nhận hiện đại mà các nhà phê bình nước ta mới quan tâm nghiên cứu một cách có hệ thống. Còn trước đó mấy chục năm, xung quanh vấn đề này, ít nhiều chúng ta đã tìm thấy trong những ý kiến đánh giá và luận giải của Hải Triều đáng để ghi nhận.

Trước hết, giá trị của nghệ thuật được Hải Triều nhìn nhận bắt đầu từ khâu sáng tác, nhưng không coi mọi sáng tác đều tạo nên giá trị. Sáng tác có giá trị hay không - theo ông, là ở chỗ nhà văn có xuất phát từ một quan niệm đúng hay không về nghệ thuật. Vì vậy liên quan đến vấn đề này, các cuộc luận chiến của Hải Triều với Phan Khôi để bảo vệ đến cùng tính khoa học của “duy vật biện chứng pháp” là vì mục đích lấy đó làm chỗ dựa tư tưởng nhằm xác lập và khẳng định một quan niệm đúng đắn về nghệ thuật do ông khởi xướng - nghệ thuật vị nhân sinh. Viết trên báo Trung Kỳ (1935), sau khi đã chỉ trích ý kiến của những người cho rằng: “làm nghệ thuật là vì nghệ thuật, làm nghệ thuật để mà chơi, để cho đẹp”, Hải Triều nói: “Tôi hết sức chỉ cho họ thấy cái phát nguyên của nghệ thuật là trong sự sống (...). Nghệ thuật là vì nhân sinh chứ không bao giờ có cái nghệ thuật vì nghệ thuật.” (4). Trên cơ sở một quan điểm như vậy, yêu cầu đặt ra với nhà văn trước khi cầm bút là “sống phải sống cái vĩ đại của nhân dân, phải cảm cái cảm sâu sắc của đại chúng, phải chiến đấu trong chiến đấu anh dũng của dân tộc” (5) để khám phá, nhận thức và sáng tạo. Đây là cơ sở thực tiễn để hình thành khuynh hướng “tả thực xã hội”, là điều kiện để sáng tác tạo nên những giá trị nghệ thuật.

Tuy nhiên, giá trị nghệ thuật không chỉ dừng lại ở trách nhiệm và thái độ sống của nhà văn, càng không chỉ đọng lại ở quan điểm của nhà văn về nghệ thuật mà phải được thể hiện qua sáng tác bằng chính tác phẩm. Mỗi khi đã đứng trên quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh” để sáng tác, mặc nhiên, nhà văn đã gắn việc sáng tác với đời sống xã hội, hướng sự phản ánh vào cuộc đời lầm than của những người nghèo khổ, vào hiện thực đấu tranh cách mạng của nhân dân và dân tộc. Nhà văn hoá thân vào tác phẩm không còn là cái tôi cô lập mà đã hoà chung trong cái ta của đồng loại, giai cấp để cảm và nghĩ về hiện thực. Trên báo Trung Kỳ (1935) Hải Triều vạch rõ: “Phái nghệ thuật vị nghệ thuật tưởng lầm rằng tình cảm trong nghệ thuật là cái sản vật của từng cá nhân mà thôi. Trong khi họ viết một cuốn sách, làm một bài thơ, họ nghĩ rằng đó là họ phát biểu cái bản ngã của họ (...). Có thế mà mới dám chủ trương cái sản vật của họ làm ra là chỉ vì nó và làm ra không cần phải hỏi làm ra để làm gì?” (6).

Ông nói: “Nghệ thuật là cái hệ thống của tình cảm diễn thành ra hình ảnh. Mà cái tình cảm trong nghệ thuật không xuất phát ở một cá nhân nào cả, mà chính là ở cái tổng hợp (synthèse) của những cái tình cảm giữa xã hội. Nhà nghệ sĩ khi diễn đạt cái tình cảm ấy lên trên mặt giấy hay trên tấm đá... là cố ý để cho mọi người xem tới cũng đồng mối liên cảm theo (nhấn mạnh T.T.H). Như vậy, sáng tác của nhà văn không phải là tuỳ hứng, vu vơ mà xuất phát từ ý đồ, mục đích trong mối liên hệ với độc giả qua tác phẩm. Chính độc giả là nơi tập trung nhu cầu xã hội đối với nhà văn, là đối tượng luôn đòi hỏi trông chờ nhà văn qua tác phẩm. Về mặt này, ý kiến của Hải Triều trên Tiểu thuyết thứ 7, số 62 (1935) đã chứng tỏ một sự nhận thức rất rõ: “”Giữa sự sống vất vả và gian khổ đầy những mâu thuẫn của xã hội ngày nay người ta đang ước ao về mặt tinh thần, đọc được những tác phẩm có thể diễn dịch được nỗi lòng của họ. Cái buồn, cái vui, cái giận, cái tiếc, cái thương, cái mơ ước (...) cũng cứ tô vẽ ra cho họ bằng những câu văn chân thật, cứng cỏi, mạnh bạo. Họ không cần những lời văn hoa mỹ điêu toa. Họ ưa những thể văn bình dị mà thiết thực” (8). Nghĩa là, phải xuất phát từ yêu cầu của độc giả cả về nội dung và hình thức, cả về tư tưởng và nghệ thuật để nhà văn chọn viết cái gì và viết như thế nào nhằm phát huy được hiệu quả của sáng tác. Mối liên hệ giữa nhà văn với độc giả, và ngược lại, giữa độc giả với nhà văn là mối liên hệ hai chiều trong quá trình giao tế văn học.  Không đợi đến khi tác phẩm ra đời mà ngay trong quá trình sáng tác, độc giả đã trở thành người bạn đồng hành của nhà văn, ám ảnh, thôi thúc và định hướng nhà văn cầm bút. Chỉ có những nhà văn chân chính mới đồng hành với độc giả chân chính; sáng tác của họ mới “biểu hiện được cái tình cảm tư tưởng phổ biến của số đông người trong một thời đại” (9) như Hải Triều nói, và do đó mới có thể tạo ra những giá trị nghệ thuật đích thực.

Dĩ nhiên dù sáng tác có tạo ra được giá trị nghệ thuật, thì đó cũng mới chỉ là giá trị ổn định, trong thế khả năng. Nó sẽ mãi mãi mất đi ý nghĩa nếu chỉ khuôn lại trong phạm vi sáng tác mà không được độc giả thưởng thức, tiếp nhận. Mác nói: “Chỉ có sử dụng mới hoàn tất hành động sản xuất, mang lại cho sản phẩm một sự trọn vẹn với tư cách là sản phẩm”. Những người theo phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” do không hiểu điều này hoặc cố tình phớt lờ để bảo vệ cho quan niệm của mình nên đã bị Hải Triều thẳng thắn chỉ trích. Trên báo Trung Kỳ số 1 và số 4 (1935), Hải Triều vạch rõ: “Nhà nghệ sĩ duy tâm đã cho rằng làm nghệ thuật chỉ là vì nghệ thuật. Vì nghệ thuật có giá trị vốn có của nó (sa valeur intrinsèque). Họ không cần sự phẩm bình của dư luận, sự thưởng thức của công chúng, tự nó đã có sẵn một giá trị... giá trị cố hữu của nó”. Đối lập với quan niệm đó, trên báo Tin văn số 6 (1935), ông khẳng định: “Cái giá trị của một tác phẩm và nghệ thuật không phải tự nó sẵn có mà chính là ở chỗ bình phẩm của xã hội”.

Sáng tác văn học được Hải Triều nhìn nhận như một sản phẩm của “sản xuất” tinh thần, nếu tác phẩm được viết ra không được độc giả tiếp nhận thì cùng lắm như một kỷ vật, sáng tác sẽ trở nên vô nghĩa và tác phẩm cũng dễ bị lãng quên. Chính khâu tiếp nhận của độc giả đã làm cho giá trị nghệ thuật của tác phẩm từ khả năng mà trở thành hiện thực, từ ổn định mà trở nên biến đổi; mục đích giao tiếp giữa nhà văn với bạn đọc mới được thực hiện. Ông nói: “Ví thử nhà thi sĩ viết ra cuốn sách rồi bỏ vào rương khoá lại đến khi chết đem xuống đất thì dầu ông ấy muốn cho tác phẩm của ông có giá trị cố hữu, ta cũng chả nói làm gì. Bên này thì ông viết ra ngâm chán rồi lại muốn đưa ra cho xã hội biết, tất cũng như cái mũ đưa ra giữa thị trường vậy thôi. Nó cũng tuỳ theo sự nhu yếu, sự sử dụng, sự thiếu thốn, sự thời thượng ..v..v... của mỗi giai cấp, mỗi thời gian, mỗi không gian mà quyết định cái giá cho tập sách của thi sĩ”.

Như vậy, giá trị nghệ thuật được Hải Triều xem xét không những trong mối liên hệ hữu cơ giữa sáng tác và tiếp nhận, mà ngay trong tiếp nhận, việc định giá đối với sáng tác qua tác phẩm, theo ông, còn do độc giả quyết định với sự chi phối của những yếu tố vừa mang tính chủ quan, vừa khách quan. Đó là yêu cầu của mỗi người, nhưng gắn bó không tách rời với giai cấp là lập trường, quan điểm, với thời gian, không gian là thời đại và hoàn cảnh lịch sử xã hội. Đã có lần ông khẳng định: “Cái giá của nghệ thuật trong xã hội này chỉ tương đối và hữu hạn mà thôi. Vì nghệ thuật đối với giai cấp này, thời đại này, xứ sở này thì cho là có giá trị, đối với giai cấp khác, thời đại khác, xứ sở khác thì chả ra gì”. Ý kiến của Hải Triều tuy chưa được triển khai một cách đầy đủ và cụ thể, nhưng trong nội dung cốt lõi của nó đã chứng tỏ một cái nhìn đúng đắn và sâu sắc của ông về một phương diện nữa của tiếp nhận. Đó là sự quy định của xã hội và văn hoá - lịch sử đối với việc đánh giá giá trị nghệ thuật, mà sau này, các nhà nghiên cứu tiếp nhận hiện đại ở nước ta đã có dịp phân tích và chứng minh một cách sáng tỏ, có hệ thống.

Như vậy không đợi đến những năm 70 của thế kỷ trước, ở ta mới có người đề xuất “xem xét giá trị nghệ thuật liên quan đến phạm vi thưởng thức tác phẩm của độc giả” - như một nhà phê bình đã nhận định, mà sớm hơn, cách đó 40 năm, xung quanh về vấn đề này, trong quan điểm văn nghệ của Hải Triều đã có nhiều ý kiến đặt cơ sở nền tảng. Giá trị di sản tư tưởng văn hoá của Hải Triều được khẳng định trên nhiều lĩnh vực. Chỉ kể riêng ở lĩnh vực văn nghệ, đóng góp của ông về một phương diện cụ thể như vậy đã xuất sắc mà trước đó chưa ai có được. (*).

T.T.H
(189/11-04)


-------------------------
(1) Đại diện cho phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” có Thiếu Sơn, Hoài Thanh còn đại diện cho phái “nghệ thuật vị nhân sinh” có Hải Triều, Hải Thanh, Hải Vân, Bùi Công Trừng...
(2) Trường Chinh, Về văn hoá và nghệ thuật, T2, Nxb Văn học, H.1986, trang 156.
(3) (4( (5) Hải Triều Về văn học nghệ thuật, Sđd, trang 9, 35, 99.
(6) (7) (8) Hải Triều, Về văn học nghệ thuật, Sđd, trang 34, 79, 56, 34
(9) Nhiều tác giả - Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, H.1986, T1, trang 331 (chuyển dẫn).
(*) “Khi xét công lao lịch sử, người ta không căn cứ vào chỗ là các nhà hoạt động lịch sử đã không cống hiến được gì so với nhu cầu của thời đại của chúng ta, mà căn cứ vào chỗ họ đã cống hiến được gì mới so với các bậc tiền bối của họ” (Lê nin, Về văn hoá văn học, Nxb Văn học, H, 1977, trang 194).





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ THỜI ĐÔN        (Phiếm luận)Đọc Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, đến đoạn kết thúc phiên tòa báo ân, báo oán, người hay trắc ẩn thì thấy nhẹ nhõm, người cả nghĩ thì thấy vợ chồng Thúc Sinh- Hoạn Thư thoát nạn mà thán phục sự tế nhị của Nguyễn Du.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sách Phê bình văn học thế kỷ XX tác giả Giăng Ivơ Tađiê có nói tới ba bộ phận phê bình. Phê bình văn học ta hiện nay chủ yếu cũng có ba bộ phận ấy họp thành: phê bình báo chí, phê bình của các nhà văn nhà thơ và phê bình của các nhà phê bình chuyên nghiệp.

  • ĐÀO THÁI TÔNTrong bài Mê tín dị đoan trên chuyên mục Tiếng nói nhà văn (Văn Nghệ số 52 (2032), ngày 26 - 12 - 1988), nhà văn Thạch Quỳ thấy cần phải "phân định cho được văn hóa tâm linh, văn hóa nhân bản, văn hóa tín ngưỡng để phân biệt nó với mê tín dị đoan".

  • NGUYỄN THỊ XUÂN YẾNLà một nội dung mở, tín hiệu thẩm mỹ (THTM) đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu khoa học quan tâm, đặc biệt là các nhà nghiên cứu văn học đã bàn luận khá rộng.

  • ĐẶNG VIỆT BÍCHTrong mười hai con giáp, từ lâu, người ta đã nhận thấy chỉ có mười một con là động vật có thật, được nuôi trong gia đình, là gia cầm (như gà - dậu), là gia súc (trâu - ngưu) hoặc động vật hoang dã (như hổ - dần)... Còn con Rồng - Thìn thì hoàn toàn là động vật thần thoại.

  • Vừa qua tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị Dịch thuật Giới thiệu Văn học Việt Nam ra thế giới, quy tụ trên một trăm dịch giả trong và ngoài nước đến từ hàng chục quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau như Pháp, Mỹ, Đông Âu, Trung Quốc... Đây được xem là bước khởi đầu cho việc quảng bá tốt nhất văn học Việt ra thế giới.

  • NGUYỄN THANH HÙNGTiếp nhận văn học thực sự diễn ra dưới ảnh hưởng của đặc điểm cuộc sống trong cộng đồng lý giải tác phẩm. Có được ý nghĩa phong phú của văn bản nghệ thuật là nhờ sự tiếp nhận của các thành viên độc giả tạo ra. Chính những ý nghĩa ấy chứ không phải bản thân văn bản, thậm chí không phải cả dụng ý của tác giả là điểm khởi đầu cho "chiều dài thương lượng" về giá trị của tác phẩm văn học trong lịch sử.

  • HỮU ĐẠTKhi giảng dạy thơ ca của bất cứ nhà thơ nào, ngoài những bài được đưa vào sách giáo khoa việc giới thiệu thêm những bài thơ khác trong sự nghiệp sáng tác của tác giả là rất cần thiết. Tuy nhiên, khi giới thiệu cần có những cách phân tích và đánh giá đúng đắn mới phát huy được việc mở rộng kiến thức cho học trò. Nếu không sẽ gây ra những tác dụng ngược lại.

  • HOÀNG TẤT THẮNG         (Vì sự trong sáng tiếng Việt)

  • ĐẶNG MẬU TỰU- PHAN THANH BÌNH5 năm hoạt động mỹ thuật sôi nổi, đầy trăn trở và suy nghĩ đã trôi qua, Phân- Chi hội mỹ thuật Thừa Thiên Huế đã có nhiều cơ hội để nhìn lại đánh giá những gì mà mình đã làm được.

  • VŨ ĐỨC PHÚCChữ Hán trong hàng chục thế kỷ là chữ dùng chính thức của quốc gia Việt . Trong các thế kỷ ấy văn thơ chữ Hán khi thì là văn thơ duy nhất, khi thì là bộ phận chủ yếu hoặc quan trọng, không thể thiếu, của lịch sử văn học Việt bên cạnh văn thơ chữ Nôm.

  • PHẠM QUANG TRUNGHội Nhà văn Việt Nam, bên cạnh tính chính trị- xã hội, trước hết là một tổ chức nghề nghiệp. Muốn có sức mạnh, cơ cấu và hoạt động của Hội phải tương thích với đặc thù nghề viết văn.

  • NGUYỄN VĂN HOASuốt những năm phổ thông, do phải kiểm tra hoặc phải thi cử nên bắt buộc tôi phải thuộc các bài thơ có vần trong sách giáo khoa. Trên ba mươi năm rồi tôi vẫn thuộc những bài thơ đó. Mặt khác thời tôi học phổ thông ở vùng Kinh Bắc hiệu sách có rất ít sách thơ bán và lúc đó cũng không có tiền để mua. Nguồn duy nhất là sách giáo khoa.

  • VÕ TẤN CƯỜNGLịch sử văn minh của nhân loại đã trải qua những phát kiến, khám phá vĩ đại về khoa học kỹ thuật và vũ trụ nhưng sự bí ẩn của tâm linh con người thì vẫn luôn là thách thức chưa thể giải mã.

  • Mối quan hệ của Chủ nghĩa Siêu thực với hội họa vẫn là một câu hỏi chưa được sáng tỏ, vấn đề khó khăn này đã được các nhà lịch sử mỹ thuật hé mở hơn khi chú ý ở khía cạnh hình tượng xảy ra trong các giấc mơ và coi đó là một hành vi đặc biệt của “phong cách” nghệ thuật hiện đại.

  • Cách đây vài hôm, tôi nói chuyện với một vị nữ tiến sỹ ở Viện nghiên cứu văn hoá nghệ thuật. Bà là một trưởng phòng nghiên cứu có thâm niên, rất thông thái về văn hoá. Trong lúc vui chuyện tôi nói rằng mình có ý định tìm hiểu về mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ. Bà bảo không thể đặt vấn đề như vậy, vì ngôn ngữ là một thành tố của văn hoá.

  • TRẦN HUYỀN SÂMVăn học là dòng sông chở đầy dư vị của cuộc đời, mà văn hóa là một trong những yếu tố kết tinh nên hương sắc ấy.

  • LÊ ĐẠTTình không lời xông đất để sang xuânTrước hết xin giải quyết cho xong một vấn đề đã được giải quyết từ rất lâu tại các nhà nước văn hóa phát triển.

  • HỮU ĐẠTMột trong những đặc điểm dễ nhận thấy về phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều chính là tính sáng tạo qua việc dùng từ. Có thể bàn đến nhiều trường hợp khác nhau, trong đó chữ Xuân là một ví dụ khá điển hình.