Về con người cô đơn trong tiểu thuyết “Rừng Nauy” của Haruki Murakami

15:04 28/04/2009
NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

Đây là một best - seller, nhưng thời gian đã chứng tỏ nó là cuốn tiểu thuyết tuyệt vời về tình yêu, về nỗi cô đơn của con người hiện đại. Qua tiểu thuyết này, H.Murakami đã khẳng định tài năng của mình trước công chúng yêu văn chương trên thế giới.

Không xuất hiện những bonsai, chiếu tatami, trà đạo, vũ nữ… nhưng Rừng Nauy vẫn thoáng hiện ra ở đâu đó nỗi buồn và cái đẹp mà người ta vẫn thường bắt gặp trong truyện Genji của thế kỷ XI hay trong tác phẩm của Kawabata. Đó là nỗi buồn ẩn hiện thông qua những bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, vắng lặng; là những ám ảnh về sự cô đơn, về sự sống, cái chết trong cuộc đời dằng dặc, vô định và phù phiếm, là khúc bi ca sầu tư và hài hước về đời sống tình dục, là những khoảnh khắc hiện sinh ngắn ngủi thấm đượm triết lý về những gì bất biến vẫn tồn tại trong cuộc đời con người. Nói cách khác, nỗi buồn bi cảm ấy thoát thai từ sự cô đơn trống vắng khi con người muốn đi tìm ý nghĩa đích thực của cuộc sống, tình yêu, tình dục và cái chết.

Cô đơn là bản chất của con người, vì như một nhân vật trong tiểu thuyết Rừng Nauy đã tuyên bố thẳng thắn: “Bản ngã và tha nhân là cách biệt”. Cá nhân là riêng tư, cá thể, không trộn lẫn với ai và không có phiên bản khác. Mỗi cá nhân là một tiểu vũ trụ bí ẩn. Không ai hoàn toàn hiểu nó, và bản thân nó cũng không thể hiểu được người khác dù luôn có ý thức muốn được hiểuhiểu được người khác. Nhu cầu hiểuđược hiểu này thể hiện qua nhu cầu giao tiếp, tự thể hiện, nhu cầu nhập cuộc với xã hội để trưởng thành, để tồn tại. Nhưng trong quá trình nhập cuộc, dấn thân, con người luôn phải trượt từ môi trường đang là sang môi trường sẽ là, từ môi trường quen thuộc sang môi trường xa lạ để tương thông với tha nhân, để tìm thấy hơi ấm của bầy đàn, để hóa giải sự cô đơn, cô độc. Hành trình đó có sự chi phối của bản năng vô thức vì theo E.Fromm, con người luôn hoài nhớ một cách vô thức thời kì bào thai của mình, thời kì nó nằm trong Thiên đường bụng mẹ, nay không còn nữa, nó phải tìm đến tình bạn, tình yêu, tình dục nhằm thấy lại sự thanh bình, ấm áp và an toàn đã mất. Nhưng không bao giờ nó tìm lại được, bởi theo Octavio Paz, tình yêutình dục đều mang bản chất thời gian. Nó là giây, phút, giờ, ngày, tháng, năm. Có khởi đầu và có kết thúc. Hơn nữa, tất cả chúng ta đều phải đối diện với cái chết. Trước nó, con người ý thức đầy đủ về sự phù phiếm của vật chất, danh vọng, sự ngắn ngủi của khoảnh khắc yêu đương và sự cô đơn như là thứ tội tổ tông không ngừng đeo bám con người.

Nhân vật trong Rừng Nauy đi tìm giá trị của bản thân mình, tự xác lập nhân vị của mình giữa biển người mênh mông, giữa những đô thành rộng lớn: Tokio, Kioto... Họ vẫn nói chuyện, yêu đương, chung đụng, sẻ chia và thông cảm cho nhau. Nhưng tất cả đều rất cô đơn. Họ cô đơn trong không- thời gian văn hóa Nhật Bản hậu hiện đại với sự phân mảnh cực đoan, họ cô đơn trong ý thức về cái tôi cá nhân độc đáo của mình, họ cô đơn trong khát vọng về một tình yêu vĩnh viễn và sự hài hòa tuyệt đối giữa tinh thần và thể xác, họ cô đơn ngay giữa lúc chung đụng với kẻ khác, ngay trong lúc tiếng kêu cực cảm thốt lên giữa vòng tay ôm chặt mà thân xác lạnh lẽo như băng.

Trong tiểu thuyết Rừng Nauy, có hai loại không gian chính: không gian nhà nghỉ Ami và không gian bên ngoài nhà nghỉ Ami. Hai kiểu không gian đó cũng chính là biểu tượng cho hai phần của Nhật Bản: truyền thống và hiện đại. Nhật Bản hiện đại đã Âu - Mỹ hóa với ê chề vật chất, tự do quá trớn, dục tình buông thả lấn át một Nhật Bản truyền thống: tôn trọng các giá trị đạo đức, danh dự và lối sống cộng đồng. Giữa hai phần truyền thống và hiện đại ấy đã không có sự tương thông, giao cảm để tạo lập sự hài hòa. Ranh giới của nó là sự ngăn cách của những ám ảnh cạm bẫy, chết chóc, là sự cách ngăn giữa quá khứ và hiện tại. Con người sinh tồn trong những mảng không gian đó luôn mang cảm giác cô đơn. H.Murakami đã thổi vào không - thời gian cảm giác nhàm chán vì sự thiếu vắng lí tưởng, thiếu vắng những mục đích sống chân chính khiến cho sự cô đơn như vón cục lại. Nhân vật cô đơn trong thời gian, trong những khoảnh khắc tuyệt vọng khi người yêu tự sát, bạn bè rời xa: “Tôi không có ai để chào buổi sáng hoặc chúc một ngày tốt lành”. Trong cô đơn, vô vọng và tột cùng đau khổ, họ căm ghét ngày mai sắp đến. Đối với họ, hiện tại ngưng đọng, nhàm chán còn tương lai chỉ là đón chờ việc cái đẹp đang biến đi và thế vào đó là sự dung tục, là nỗi buồn: “Này Kizuki, tôi nghĩ cậu chẳng lỡ làng cái quái gì đâu. Thế giới này là một bãi cứt. Lũ khốn kia đang được điểm tốt và sẽ tạo ra một xã hội theo hình ảnh ghê tởm của chính chúng”. Các nhân vật của Murakami đã đưa quá khứ lên bệ thờ. Vì vậy, họ thấy hiện tại như cái gì đó quái dị. Bởi thế, quá khứ trong Rừng Nauy trùm lên hiện tại, ám ảnh hiện tại, khống chế hiện tại. Nhân vật sống với quá khứ, chịu đựng hiện tại hi vọng trong một tương lai bấp bênh, vô định.

Theo E.Fromm, con người muốn thoát khỏi cô đơn không còn cách nào khác là phải hợp nhất với người khác. Và con đường hữu hiệu nhất là tình yêu. Với E.Fromm “Tình yêu là một quyền năng chủ động trong con người; quyền năng chọc thủng những bức tường ngăn cách người với người, hợp nhất mình với kẻ khác, tình yêu khiến mình vượt qua được ý vị cô lập và li cách nhưng nó cho phép mình là mình, giữ lại sự toàn vẹn của mình”. Triết gia hiện sinh Kierkegaard cũng đã viết: “Nơi nào có tình yêu, nơi đó hết cô đơn”. Trong Rừng Nauy, chủ đề tình yêu đan bện chặt chẽ với chủ đề về sự cô đơn, cô độc của con người. Đồng thời, với Murakami, tình yêu không hề chỉ là một ý niệm kiểu Platon mà nó gắn bó chặt chẽ với khao khát hòa hợp thể xác và tâm hồn. Như S.Freud đã khẳng định: gốc rễ của mọi hành vi con người là lòng ham muốn tính dục, là sự giải phóng dục năng. Cho nên, có thể nói trong tình yêu, tình dục là biểu hiện cao nhất của cảm xúc yêu thương. Vì vậy, chúng ta mới hiểu vì sao Kizuki đã lựa chọn cái chết. Đối với nhân vật này, chỉ khi có sự hòa hợp thân xác với Naoko thì tình yêu của họ mới đích thực đạt đến trạng thái hài hòa, mới đi đến tuyệt đỉnh của hạnh phúc. Nhưng cả hai không bao giờ đi đến giới hạn tận cùng của tình yêu thương. Họ bị bất lực trong tình dục. Có thể nói tiểu thuyết Rừng Nauy đã được triển khai xung quanh sự cố này. Với các nhà văn như Murakami, tình dục bất lực là một biểu hiện của mỹ học tính dục hậu hiện đại (Hạt cơ bản - Michel Houellebecq, Biên niên kí chim vặn dây cót - H.Murakami). Thông qua sự bất lực tình dục của nhân vật, Murakami cũng đã chạm đến đáy nỗi cô đơn tận cùng của con người.

Nhân vật trong Rừng Nauy tìm đến tình yêu nhưng không sao thoát ra ngoài nỗi ám ảnh của quá khứ, cảm giác bất toàn trong tình yêu, bất lực trong tình dục và sự phức tạp đa đoan của cuộc đời. Murakami đã xây dựng hình ảnh giếng đồng như một biểu tượng nhằm chỉ tất cả những ám ảnh đó - những ám ảnh khiến con người cô đơn cô độc và bị li cách mãi mãi.

Cô đơn, nhân vật trong Rừng Nauy tìm đến tình dục, đơn giản vì “Thân thể tôi đói đàn bà”, vì “nhiều lúc tớ rất thèm mùi người ấm áp”. Đó là thứ tình dục bừa bãi, lang chạ, nhằm thỏa mãn nhu cầu bản năng vốn quá dễ dãi trong xã hội Nhật Bản những năm 60. Nagasawa gọi đây là những “cơ may”: “Nó đầy rẫy xung quanh. Làm sao có thể phớt lờ nó đi được” (tr 82). Nhân vật tự do buông thả quá trớn “sẵn sàng ngủ với bất kì người nào, bất kể là ai” (tr 161). Vì vậy, tình dục cuối cùng đã mất đi ý nghĩa vốn có, chỉ còn lại cảm giác trống rỗng: “trở về khu học xá với đầy những thất vọng và ghê tởm bản thân trong khi nắng sáng như dao đâm vào mắt, mồn miệng khô như ngậm cát, còn đầu óc thì như của ai khác vậy”. Nói như một nhà nghiên cứu văn học của Nga, Vitali Dagrôbennưi, thì yếu tố tình dục trong tác phẩm của Murakami hoàn toàn được đưa với liều lượng có chủ ý, trong một ý đồ nghệ thuật nhất quán của nhà văn: “những sự chung đụng thể xác không cứu vãn nổi tâm hồn của những con người cô đơn”. Murakami nhìn thấy mặt trái của lối sống buông thả, “trái tự nhiên” và phê phán nó nhưng cũng thấu hiểu sâu xa bản chất của quan hệ thân xác: “nếu tớ không có được cái ấm áp như của da thịt đàn bà, tớ thấy cô đơn đến mức không thể chịu nổi”. Dường như, đối với những ai còn trân trọng giá trị của tình yêu, tình dục vừa gần gũi, lại vừa thiêng liêng, cao cả. Với họ, những hành vi tình dục nhiều khi sẽ là “nói cho nhau biết rằng có những điều chỉ có thể nói bằng cách cọ xát hai khối thịt bất toàn như thế này. Làm như vậy chúng mình mới chia sẻ được những bất toàn của nhau”. Theo chúng tôi, đây là một kênh giao tiếp đặc biệt, cho phép các nhân vật của ông không chỉ thõa mãn nhu cầu bản năng trong điều kiện xã hội tồn tại một sự dễ dãi buông thả không giới hạn mà còn biểu hiện một nhu cầu thực có, giúp con người khỏa lấp nỗi cô đơn trống trải chưa bao giờ lại đầy ăm ắp như thế trong đời sống của mình. Đối với các nhân vật trong Rừng Nauy, nhiều khi đây là kênh duy nhất, là cách thức duy nhất để con người đạt đến sự hài hòa và bình an trong đời sống, như Toru đã làm với Naoko đêm sinh nhật lần thứ 20 của nàng. Đối với Murakami, cách ứng xử của con người trong tình dục trở thành một tiêu chuẩn đạo đức. Nó là nơi biểu hiện chất người trong con người. Bởi thế, trong truyện ngắn Người đàn ông băng, khi H.Murakami dùng biểu tượng người đàn ông băng để thể hiện cảm giác lạnh toát vô hồn trong khoảnh khắc ái ân đã cho thấy ý nghĩa cao cả của hành vi tình dục trong quan hệ con người. Nó là tấm gương soi sáng sự thiếu thốn của tình người, sự cô đơn, cô độc của nhân thế. Và đó cũng là những lí do để người đọc lí giải được vì sao có sự chung đụng thân xác giữa Toru và Reiko ở cuối tác phẩm. Trong hành vi này, mà sự miêu tả của Murakami khá chi tiết, chỉ làm tăng thêm tính người trong con người. Nó giúp con người dũng cảm hơn để đối diện với cái thực tại bất an, phức tạp, rối bời và phù vân xung quanh mình. Người ta không chỉ ngủ với nhau vì yêu nhau, người ta không chỉ làm tình vì khát thèm bản năng, người ta còn có thể ngủ với nhau khi là bạn. Ở đây, tình dục đã không còn nguyên nghĩa của một hành vi thỏa mãn bản năng. Tình dục đã trở thành một nghĩa cử hào hiệp giữa những người bạn tri âm, tri kỉ. Sự hài hòa tình dục đã kết nối hai thế giới: Thế giới xưa cũ, truyền thống và khép kín: nhà nghỉ Ami và thế giới hiện đại, phức tạp, đang biến động không ngừng: Nhật Bản hiện đại.

Trong các tác phẩm viết về chủ đề cô đơn như kịch phi lý, tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài..., các nhà văn thường xây dựng những đối thoại trật khớp. Nhân vật như đang trong một cái “tháp Babel ”, ông nói gà, bà nói vịt, đối thoại mà như độc thoại nhằm thể hiện sự phi lý, sự cô đơn cô độc của con người. Đối thoại trong tiểu thuyết Rừng Nauy không phải là những đối thoại trật khớp mà ta thường thấy. Nhà văn làm lộ diện trạng thái cô đơn của nhân vật thông qua những cuộc thoại mà nhân vật thường không có khả năng diễn đạt, luôn rơi vào tình trạng bấn loạn ngôn từ, thể hiện sự bất lực trong khả năng giao tiếp với xã hội hiện đại. Đó là các cuộc thoại giữa Toru và Quốc xã, Toru và Naoko, Toru - Nagasawa và Hatsumi... Chẳng hạn, nhân vật Quốc xã luôn lắp bắp với từ “bản đồ” - cũng là lí tưởng sống của anh ta; một nhân vật khác, Naoko, thì luôn rất khó khăn để tìm cách biểu cảm bằng lời nói. Có lẽ đây không phải là sự hoài nghi ngôn ngữ như các nhà viết kịch phi lý. Những lời lắp bắp ấy của Quốc xã cho thấy một sự thật là lí tưởng sống trong xã hội hiện đại Nhật Bản đã trở thành một cái gì đó không bình thường, không hiển nhiên, như là kí ức xa xưa, ẩn ức vô thức trỗi dậy và tìm đến kẻ phát ngôn kì quặc của nó. Với Naoko, nhân vật này bị một tha lực tước đoạt mất năng lực diễn đạt. Tha lực đó chính là sự áp chế đầy phi lý của cái quá khứ, cái đã xảy ra với cái hiện tại đang xảy ra và nhất là với cái đã có thể xảy ra. Bởi vậy, kênh giao tiếp bằng lời đối thoại bị lung lay, nhân vật thường “trò chuyện nhát gừng”, trong ngôn từ thường trực một chữ NẾU. NẾU thế này, NẾU thế kia… hoặc là sự “im lặng” bởi “sợ cả việc phát âm ra”. Như một điều hiển nhiên, nhân vật tìm đến với kênh thư từ - một hệ thống chuyển mã mới từ ngôn ngữ nói sang ngôn ngữ viết. Nhưng với Naoko, “viết là một quá trình đau đớn”. Đó không phải là cách giao tiếp tự nhiên giữa con người - con người. Naoko đã tìm đến cái chết khi cô không thể tìm thấy khả năng nào có thể kết nối mình với thực tại, với Toru và những người thân yêu khác, khi trong tai cô không ngừng ong ong những âm thanh của bóng tối, của quá khứ, của cái chết.

Trong truyện ngắn Thuyền hàng đi Trung Quốc, nhà văn H.Murakami đã viết về trạng thái con người bị mất khả năng giao tiếp. Tất cả chỉ còn là sự im lặng và bóng tối. Đó sẽ là ngày tận thế, là điểm mút của thân phận con người cô đơn.

Thế giới Rừng Nauy thiếu vắng lí tưởng, thiếu vắng các giá trị truyền thống có khả năng dẫn dắt cuộc sống hiện tại, cũng không có mẫu hình tương lai nào khả dĩ làm điểm tựa; cái đẹp phải trôi dạt và tự hủy diệt; tàn bạo, dung tục lên ngôi, nhân vật trong Rừng Nauy hoang mang, họ cô đơn, cố gắng tìm cách tương thông với người khác trong tình bạn, tình yêu, tình dục mong tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời dù chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi nhất. Nhưng cô đơn vẫn hoàn cô đơn. Bế tắc, buồn chán, nhân vật tìm đến cái chết, đến rượu, đến sự hành xác và lang thang vô hướng, đến sự phá phách và thây kệ rất mù quáng, đến thái độ bất cần, bất hợp tác, li thân với ngoại giới; đến tiểu thuyết, âm nhạc, và cả phim ảnh. Nhưng cô đơn chỉ vợi đi chứ không biến mất. Nó như một thứ tội tổ tông cứ bám riết lấy các nhân vật, thành một khối đặc quánh bao vây họ, như một bầu khí quyển riêng của Rừng Nauy. Dẫu biết rằng cần phải làm khác đi để thoát khỏi bầu khí quyển đặc quánh ấy như Naoko và Reiko đã nói: “Đây có lẽ là việc chúng ta nên làm: hãy tìm cách hiểu nhau hơn”. Nhưng đã không ai hoàn toàn vượt khỏi cái ngã của mình để hòa nhập thực sự với người khác.

Cô đơn trong Rừng Nauy là cảm giác mang tính thời đại. Cảm giác ấy được khơi gợi từ chính nhan đề của tiểu thuyết. Tên tiểu thuyết trùng với tên bài hát Rừng Nauy của nhóm Beatles, là bài hát nổi tiếng và rất phổ biến những năm 60 - 70 trên phạm vi cả thế giới. Nó được các nhân vật thanh niên trong tiểu thuyết này yêu thích đặc biệt. Nó gọi hồi ức, nó gợi kỷ niệm, nó tạo hưng phấn cho các nhân vật. Họ nghe nó thật trịnh trọng, như nghe lễ ca. Đặc biệt, mỗi lần nghe bài hát này, Naoko luôn cảm thấy chính nó đã vẻ nên số phận bất hạnh của mình: “Bài hát có thể làm cho mình thật buồn”, “mình tưởng tượng như đang lang thang trong một khu rừng sâu. Mình chỉ có một mình và trời thì lạnh và tối, và chẳng có ai đến cứu mình”. Về sau, chính Naoko tìm đến cái chết trong một khu rừng hoang vắng, trong cô độc hoàn toàn. Bởi vậy, tên tiểu thuyết là Rừng Nauy, đâu chỉ thuần tuý là tên một bài hát. Nó còn là tên một nỗi ám ảnh về sự cô độc nơi phương xa xứ lạ. Là tên một dự báo buồn mang tính thời đại, cũng là tên của những khoảnh khắc hạnh phúc ngắn ngủi, chóng vánh như nội dung của ca từ: “Tôi từng có một cô gái…”.

Rừng Nauy là một best seller, nhưng thời gian đã chứng tỏ nó là một tiểu thuyết tuyệt vời về tình yêu, về nỗi cô đơn, về những nhịp đập của thời đại. Tác giả của nó thật xứng đáng với lời khen tặng: “Murakami là một trong những tiểu thuyết gia tinh tế nhất thế giới” (Glasgow Herald).

N.V.T

(242/04-09)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?

  • VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.

  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).