Về cảm hứng triết luận, cổ học nhân văn phương Đông và quan điểm lịch sử văn hoá trong nghiên cứu, phê bình văn học

10:43 29/05/2009
HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến



I.
CẢM HỨNG TRIẾT LUẬN TRONG NGHIÊN CỨU, PHÊ BÌNH VĂN HỌC.

Tôi đặc biệt chú ý đến một ý kiến của Thạch Lam được Vương Trí Nhàn trích dẫn trong một lần phát biểu ý kiến nhân bàn về những cuộc tranh luận văn học những năm gần đây: “Cái mà chúng ta thiếu nhất, ấy là sự sâu sắc”. Một chiều sâu của nghiên cứu, phê bình văn học là cảm hứng triết luận.

Văn, Triết xưa nay là bạn đồng hành. Trong tình hình học thuật hiện nay, càng nên lưu ý đến sự đồng hành này. Trong chuyến công du đến Hà Nội (cuối tháng tư 2001) nhà triết học Pháp FranÇois Jullien sau khi tiếp xúc với hai nhà văn trẻ - Nguyễn Bình Phương, Trần Việt Hà, có nói với tôi: “... ở Việt Nam, triết học lẩn vào trong văn học”.

Có nhiều định nghĩa về triết học. Liên hệ đến tình hình lý luận phê bình hiện nay, tôi nghĩ đến định nghĩa của Thomas Carlyle: “Triết học là gì, phải chăng là một cuộc chiến liên tục chống lại tập quán: một nỗ lực luôn luôn đổi mới nhằm vượt siêu cầu trường của tập quán mù quáng?”(1) Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy. Tôi lấy một ví dụ. Đôxtôievxki hiển nhiên là một cái đỉnh của văn học thế giới thế kỷ XIX. Borges (1899-1999), một thiên tài của văn học thế giới thế kỷ XX đã suy nghĩ về Đôxt như thế nào. Có thời ông tưởng rằng Đôxtôievxki là tiểu thuyết gia độc nhất vô song và ông đã đọc đi đọc lại nhiều lần Tội ác và trừng phạt Những người bị quỷ ám. Nhưng dần dà ông nhận thấy trong truyện của Đôxt rất khó phân biệt nhân vật này với nhân vật khác, tất cả đều giống Đôxt một cách lôm nhôm và các nhân vật dường như thích thú với sự bất hạnh của họ. Thế là ông không đọc Đôxt nữa và theo lời ông, “sức sáng tạo của ông chẳng vì sự thiếu vắng này mà giảm sút”(2).

Những nhà văn lớn thường gặp những triết gia lớn ở chỗ trong tác phẩm của họ con người được đặt trong quan hệ với cái “tuyệt đối”. Trong nghiên cứu, phê bình văn học hiện nay, con người thường được đặt trong quan hệ với những vấn đề chính trị-xã hội thời sự. Nghiên cứu, phê bình văn học sẽ có chiều sâu hơn nếu như những vấn đề thời sự chỉ là điểm xuất phát. “Chúng ta không đi đến chân lý, chúng ta chỉ va chạm vào chân lý”(Evarist Gallois). Từ những vấn đề thời sự, trong cảm hứng triết luận, người nghiên cứu,phê bình có cơ chạm được vào “cái tuyệt đối”. Quan niệm của tôi về “cái tuyết đối” cũng đơn giản thôi, đó là những khát vọng nhân bản và vĩnh hằng của con người về chân, mỹ, thiện...

II. CỔ HỌC NHÂN VĂN PHƯƠNG ĐÔNG VÀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC HIỆN NAY.

Nói đến văn hoá, văn học Việt Nam, phương Đông trước hết là Trung Hoa. Cổ học nhân văn (les humanités) Trung Hoa là những tinh hoa học thuật và nhân bản có giá trị bền vững trong văn hoá cổ đại Trung Hoa. Thời gian nước ta nằm trong khu vực văn minh chữ Hán dễ phải tính bằng thiên niên kỷ. Tôi không đủ thẩm quyền để bàn về đề tài được nêu lên. Tôi nêu một số kinh nghiệm cá nhân. Khoảng dăm năm nay do phải đọc và dịch một số tác phẩm triết học so sánh Đông -Tây của một tác giả Pháp tôi buộc phải đọc những tác phẩm kinh điển Nho, Phật, Đạo, nhờ vậy có tiếp nhận được ít nhiều tinh hoa của cổ học nhân văn Trung Hoa. Vốn Tây học của tôi đem dùng mấy chục năm nay dường như bị ứ đọng, hao kiệt, đã có những sự lặp lại, những tư biện suông và nay chút vốn liếng cổ học tinh hoa mới học được đã giúp tôi những cách nhìn và tiếp cận mới. Tôi xin phép nêu những dẫn chứng trong 3 bài báo và tiểu luận quan trọng nhất của tôi trong ba năm vừa qua.

Viết bài phê bình Cơ hội của Chúa của Nguyễn Việt Hà (xem Sông Hương, số 12/1999) việc khó nhất là xác định tính cách của Hoàng, nhân vật trung tâm của truyện. Cuối cùng tôi đã tìm được một định ngữ: Hoàng thuộc loại nhân vật “phản hương nguyện”. Ý niệm “hương nguyện” tôi tìm được trong sách Mạnh Tử. Trong tác phẩm này bộ mặt của loại người vẫn được gọi là “phường hương nguyện” được miêu tả qua thái độ của họ đối với “cuồng giả” (là “kẻ sĩ có chí tấn thủ trên đường đạo lý,dẫu làm chẳng được,cũng gắng sức mà làm”), và “quyến giả” (là “kẻ sĩ giữ gìn khí tiết: chuyện chẳng hạp nghĩa chẳng làm”(3)...

Vạn Chương, môn đệ của Mạnh Tử hỏi: “... Tôi xin hỏi thầy: Người như thế nào mới gọi là hương nguyện?”
Mạnh Tử đáp rằng: “... ấy là những kẻ hay chê cười... Đói với cuồng sĩ họ trách rằng: “Mấy ông ấy có chí cao nguyện lớn để làm gì?... ”. Đối với quyến sĩ, họ trách rằng: “Mấy ông ấy làm gì mà ăn ở khác đời? Làm gì mà lãnh đạm với đời?Đã sanh ra và sống ở đời này, thì cứ làm việc đời nầy đi. Miễn được khen là tốt rồi”. Họ nịnh đời bằng cách che dấu điều tốt đẹp của người và khoe khoang việc xứng đáng của mình. Phường như thế là hương nguyện vậy”

Vạn Chương lại hỏi: “Cả làng đều khen họ là người thật thà đứng đắn; đi đâu họ cũng làm như người thật thà đứng đắn. Tại sao đức Khổng Tử nói rằng họ làm bại hoại nền đạo đức?”
Mạnh tử giải thích rằng: “Muốn chê họ, thì chẳng có chỗ gì chê; muốn trách họ, thì chẳng có chỗ gì trách. Họ đồng hoá theo thói tục thông thường, họ dung hiệp với cõi đời ô trược. Lòng dạ họ dường như trung, tín; hành vi họ dường như liêm, khiết. Dân chúng lấy làm ưa thích họ, mà họ cũng tự nhận mình là trung, tín, liêm, khiết. Thế mà họ không thể cùng đi với mình vào Đạo vua Nghiêu, vua Thuấn. Bởi thế, đức Khổng nói rằng họ làm bại hoại nền đạo đức vậy”(4). Giá như trước đây tôi sẵn sàng dùng từ philistin (phi-lix-tanh), một từ khá thông dụng trong nhiều ngôn ngữ phương Tây để nhận dạng loại người này, nhưng từ hương nguyện phương Đông hơn, trúng hơn, chính xác hơn nhiều.

Trong dịp tham gia Dự án về cộng đồng Việt Nam hải ngoại 2000-2001 (Trung tâm Joiner Center, Đại học tổng hợp Massachusetts Boston) tôi nghiên cứu đề tài Văn học Việt Nam hải ngoại. Sau một chuyến đi dài qua nhiều tiểu bang, có dịp tiếp xúc với những bạn đồng nghiệp Việt kiều tôi thấy hầu hết họ đọc khá nhiều và kỹ về Phật học, có những người am hiểu sâu sắc. Về phần mình cảm thấy trong lĩnh vực này có khi không đủ cả ngôn ngữ để nói chuyện với họ. Thế là tôi trở về Boston, nơi thường trú của tôi, đóng cửa phòng lại đọc sách Phật học. Đợt đọc sách này có giúp tôi thức nhận được đôi điều. Có lẽ do ảnh hưởng của văn hoá phương Tây, xưa nay tôi chỉ quan niệm Địa ngục và những địa ngục ở bên ngoài. Đọc Kinh A di đà (thiền giải)có đoạn viết: “Chúng ta ai cũng biết địa ngục nóng như thế nào rồi. Chúng ta đã từng ở địa ngục, đã từng bị lửa giận, lửa phiền não, lửa tuyệt vọng đốt cháy. Chúng ta đã biết rằng tất cả những đau khổ của địa ngục đều từ trong tâm mình ra chứ không phải từ ngoài đi vào”(5).

Từ thức nhận này tôi thấy được chiều sâu của những tác gia hải ngoại miêu tả những nhân vật trí thức vượt biên định cư thành đạt: cũng nhà, cũng xe, cũng quần là, áo lượt, kẻ đón, người đưa... nhưng không hiểu sao “cứ mãi nháo nhác không yên”... hoá ra “địa ngục họ mang kè kè trong đầu” mà địa ngục này thì không cách gì lẩn trốn được. Văn học trong nước, rất hiếm tác giả thấy được “địa ngục ở trong đầu mình”. Dĩ nhiên trước sau rất cần những tiếng thét phẫn nộ, những lời tố cáo đanh thép đánh động công luận về sự ngang nhiên tồn tại của những địa ngục bên ngoài to và nhỏ còn đầy rẫy trong thế giới này. Tuy nhiên, chừng nào mỗi người trong chúng ta, từ thường dân đến người cầm quyền, từ bình dân đến trí thức chưa biết ngó đến “cái địa ngục trong đầu mình”, thì cuộc sống vẫn không khá lên được. Một trong ba tiêu chuẩn Lev Tolstoi đề ra cho một tác phẩm văn học lớn là: phản ánh được một vài “đặc tính cốt yếu của nhân loại mà nhân loại chưa ý thức được”. Phải chăng “mang địa ngục kè kè trong đầu mình” là một đặc tính cốt yếu của nhân loại mà nhân loại chưa ý thức được? Ngoài ra, phải chăng, ở vấn đề này, bộc lộ khá rõ một sự đối lập giữa truyền thống hướng ngoại của tâm tưởng phương Tây và truyền thống hướng nội của tâm tưởng phương Đông? Khi chỉ ra: “Địa ngục,đó là Tha nhân” Jean Paul Sartre chứng tỏ rằng ông triết luận trong truyền thống hướng ngoại của tâm tưởng phương Tây. Ông phát hiện ra địa ngục ở tha nhân, tức là một địa ngục ở bên ngoài... Mang tâm thế hướng nội của tâm tưởng phương Đông, những nhà văn hải ngoại được nhắc đến ở trên thấy địa ngục “ở ngay trong đầu mình”. Hai nền văn hóa khác nhau. Nếu như Jean Paul Sartre trước hết thấy địa ngục trong đầu của ông hẳn là cách nhìn của ông về tha nhân sẽ khác đi, đây là cách nhìn của tôi về tương quan giữa hai nền văn hóa.

Về bài báo Dị ứng với cái rởm, một phương diện của trào phúng Vũ Trọng Phụng (6), từ lâu những ý tưởng, cả những cứ liệu và chi tiết đã có sẵn trong đầu nhưng không có cách gì đưa ra ngoài..., còn thiếu cái gì đó. Lần này, Trang Tử đã cứu tôi. Tôi sực nhớ đến hai khái niệm tiểu tríđại trí trong Nam Hoa Kinh và chúng đã tham gia tổ chức những ý và cứ liệu tản mạn thành bài.

Thực ra, từ nhiều năm trước nữa tôi đã tìm sách Nho, Phật, Đạo để đọc. Những công trình uyên bác, biên soạn công phu, nhưng đọc xong hầu như không nhớ gì cả. Những năm gần đây, may mắn hơn, tôi đọc được những sách của Nhất Hạnh về Phật học, những tác phẩm của Francois Jullien về Khổng Mạnh, Lão Trang, những công trình của Benjamin Schwartz về Thế giới tư tưởng Trung Hoa cổ đại, sức hấp dẫn và ám ảnh lâu dài tâm trí người đọc của những tác phẩm này là ở chỗ chúng mang hơi thở của thời đại, dường như những tác giả của chúng viết về những thánh nhân và minh triết của thời đại xa xưa bằng những băn khoăn, nghĩ ngợi về những vấn đề của thế giới ngày nay. Chúng ta đương thiếu những công trình biên soạn Cổ học nhân văn phương Đông mang hơi thở của hiện đại.

Tôi xin phép kết thúc mục này bằng ý kiến của một học giả phương Tây đánh giá thế kỷ vừa qua về măt văn hoá, tư tưởng: “Thế kỷ XX là thế kỷ cuối cùng phương Tây ngự trị thiên hạ”.

III. QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ VĂN HOÁ TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC SỬ.

Hầu như ở nước nào cũng vậy, theo quan điểm hàn lâm thì lịch sử văn học, lịch sử nghệ thuật trước hết là lịch sử những tác gia lớn, tiêu biểu và những tác phẩm xuất sắc, ưu tú. Quan điểm này đã được nhà phê bình nghệ thuật
Thái Bá Vân phát biểu khá rõ và dứt khoát: “Lịch sử nghệ thuật không thuộc đám đông mà là đường nối giữa các đỉnh cao, bước ngoặt, sự kiện với cái ý nghĩa chúng là yếu điểm của không gian - thời gian.” Có hẳn đúng như vậy không? Tôi có đọc bản báo cáo “Lịch sử văn hoá trong không gian các khoa học xã hội” của Jean-Yves Mollier (giáo sư trường Đại học Versaille) được trình bày trong một cuộc hội thảo ở Tp. Hồ chí Minh.

Tác giả có nêu lên hai sự kiện văn học sử:
– Vở kịch Hernani của Victor Hugo là một đỉnh sáng chói của sân khấu Pháp thế kỷ XIX. Mọi cuốn sách lịch sử văn học chính thống ở trường phổ thông cũng như ở trường đại học đều ghi nhận sự kiện này. Nhưng có một sự kiện ngày nay ít ai biết đến là đương thời với vở Hernani có vở Hai cô gái mồ côi (Les deux orphelines) của Adolphe d' Ennery được công chúng đông đảo (“đám đông”) hoan nghênh nhiệt liệt, mến mộ hơn nhiều so với vở kịch của Victor Hugo. Theo quan niệm của Mollier, trong “không gian của lịch sử văn học”, lịch sử văn hoá cần nghiên cứu vở kịch Hai cô gái mồ côi. Vì sao vậy? Đây là lời biện bạch của học giả người Pháp: “Thế kỷ XIX Pháp đã hoan nghênh trên sân khấu vở Hai cô gái mồ côi nhiệt liệt hơn vở Hernani của Victor Hugo, việc này không có nghĩa là vở thứ nhất – một mélodrame – nhất thiết phải hay hơn vở thứ hai – một drame lịch sử – nhưng việc này khiến chúng ta, chí ít, phải đọc cả hai tác phẩm, cố tìm hiểu vì sao dân chúng lại có thể nhận ra mình thông qua một vở mélodrame sâu sắc hơn là thông qua một vở drame trong khi đó truyền thống đại học đã xoá sổ vở Hai cô gái mồ côi ra khỏi lịch sử chính thống.”(chữ đậm là của H. N. H.)

– Pierre Loti (1850-1923) là một nhà văn Pháp nổi tiếng, Những người đánh cá Islande là một tác phẩm tiêu biểu của ông. Trong những cuốn sách văn học sử, P. Loti được nghiên cứu ở các mặt như chúng ta biết: tiểu sử, thời đại, thể loại, văn phong, thi pháp... và vân vân... Lịch sử văn hoá cũng nghiên cứu P. Loti (dĩ nhiên sử dụng những thành tựu nghiên cứu P. Loti của lịch sử văn học) nhưng quan tâm đến những vấn đề khác. Chẳng hạn, Mollier nêu lên vấn đề sau đây có liên quan đến lịch sử xuất bản lịch sử tiếp nhận những tác phẩm của Loti. Cho đến năm 1905, những tác phẩm của Loti được in số lượng nhỏ. Những tác phẩm của ông được xem là những tác phẩm tinh hoa, công chúng tinh hoa mến mộ ông và những nhà phê bình “chính thống” ca ngợi ông. Đến năm 1906, do sự tiến bộ của công nghệ in, những tác phẩm của ông được in hàng chục vạn bản. Lập tức có sự thay đổi trong việc đánh giá sáng tác của Loti. Lớp công chúng tinh hoa xem tác phẩm của ông là rẻ tiền, dung tục. Những nhà phê bình hàn lâm đổi giọng, xem thường văn nghiệp của ông. Như vậy, P. Loti bỗng dưng bị mất giá (trước công luận “chính thống”) do sự tiến bộ của công nghệ xuất bản. Đây là một vấn đề lý thú. Sự kiện văn học được xem xét từ quan điểm lịch sử văn hoá bộc lộ những khía cạnh, những vấn đề, những ý nghĩa mà lịch sử chuyên ngành không thấy hoặc bỏ qua.

Năm 2002, sự kiện lớn nhất trong đời sống văn hoá Pháp và được cả thế giới quan tâm là quyết định của nhà nước Pháp đưa di cốt của nhà văn Alexandre Dumas (1802-1870) vào táng ở Điện Panthéon (thế kỷ XIX, chỉ có Victor Hugo và Emile Zola được vinh dự này). A. Dumas là nhà văn rất nổi tiếng lúc sinh thời và cả sau này nữa cho đến tận bây giờ. Nhưng giới Hàn Lâm không xem ông là một nhà văn “đích thực”, tác phẩm của ông không được dạy ở nhà trường và không được nghiên cứu ở đại học, xem như không đáng giảng dạy và không đáng nghiên cứu. Quyết định mới của nhà nước Pháp đã làm thay đổi về cơ bản vị trí của A. Dumas trong lịch sử văn học Pháp. Sự kiện văn học này rất đáng để giới nghiên cứu đại học chúng ta suy nghĩ. Trong nghiên cứu ở đại học, phong cách hàn lâm là quan trọng, nhưng đôi khi cũng nên nghi ngờ những quan điểm hàn lâm.

H. N. H
(174/08-03)

--------------
(1) Chuyển dẫn từ Brooke Noel Moore/ Kenneth Bruder,Philosophy, Mayfield Publishing Company,1990,p. 18.
(2) Xem Magazine Literaire,Mai 1999, p. 21.
(3) Xem Mạnh Tử, tập hạ, N. x. b. Thuận Hoá, 1996, tr. 281.
(4) Sách đã dẫn,tr. 283,tr. 285.
(5) Nhất Hạnh. Thiết lập tịnh độ (Kinh A di đà thiền giải), Lá Bối 2000, tr. 119.
(6) Đăng trong Bản sắc hiện đại trong các tác phẩm Vũ Trọng Phụng. Viện Văn học. N. x. b. Văn học. 2003

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H