Về bản Truyện Kiều chữ Nôm cổ trong “Truyện Kiều tập chú”

16:46 21/04/2010
NGUYỄN THẾ - PHAN ANH DŨNGCầm trên tay cuốn Truyện Kiều tập chú (TKTC), NXB Đà Nẵng, 1999, dày hơn 1000 trang của các tác giả Trần Văn Chánh, Trần Phước Thuận, Phạm Văn Hòa, chúng tôi thấy đây là một công trình nghiên cứu công phu, tập hợp và chọn lọc được một số chú giải của các học giả nổi tiếng.

Ảnh: diendan.songhuong.com.vn

Đặc biệt ngoài những hình ảnh minh họa được rút ra từ nhiều nguồn, các tác giả đã cho in vào phần phụ lục một bản Kiều Nôm và cho rằng đây là một bản Nôm “thuộc loại xưa nhất, là thủ bút của cụ Tam nguyên Vị Xuân Trần Bích San (1838-1877)”. Mặc dù nguyên văn lời giới thiệu ở trang bìa 4 như thế nhưng trong lời dẫn giải về bản truyện Kiều Nôm in ở phần phụ lục các tác giả vẫn còn dè dặt chứ chưa đoan chắc đây chính là thủ bút của Tam nguyên Trần Bích San. Vì vậy họ đã cho in một trang trong bài Văn sách kỳ thi Đình của Trần Bích San để đối chiếu, đồng thời cũng in thủ bút lời ghi chú của cụ Giản Chi trên bản truyện Kiều Nôm nhằm minh xác cho bản Kiều Nôm này.

Là những người có sở thích tìm hiểu và thường xuyên nghiên cứu di sản Hán Nôm của cha ông, khi đọc được các bài giới thiệu trên báo chí về cuốn “TKTC” chúng tôi đã cố gắng tìm mua cho bằng được, song sách phát hành về đến Huế hơi muộn nên đến hôm nay chúng tôi mới có được nó trong tay. Việc đầu tiên là chúng tôi xem bản Nôm ở phần phụ lục, nếu đây là bản Kiều Nôm do chính tay cụ Tam nguyên Trần Bích San viết thì quả là một bản Nôm quí, vì cho đến nay chúng ta vẫn chưa tìm được bản gốc cuốn truyện Kiều bằng chữ Nôm của cụ Nguyễn Du, ngoài bản Kim Vân Kiều tân truyện của Liễu Văn Đường in năm Tự Đức thứ 24 (1871), các bản còn lại đều được in cách xa sau thời của cụ Trần Bích San.

Vậy bản Kiều Nôm này có phải là thủ bút của Tam nguyên Trần Bích San hay không? Cụ Giản Chi cho rằng đây chính là thủ bút của cụ Trần Bích San (như trong lời ghi chú), còn tác giả thì chưa dám nói chắc. Riêng chúng tôi, bằng trực giác vốn có khi tiếp xúc với văn bản, chúng tôi không ngần ngại mà khẳng định rằng đây là một bản Nôm quí nhưng tuyệt nhiên không phải là thủ bút của Tam nguyên Trần Bích San, vì lẽ: Trần Bích San là con cụ Trần Doãn Đạt, hai cha con đều thi đỗ và cùng làm quan dưới thời Tự Đức (Trần Doãn Đạt đỗ Phó bảng khoa Nhâm Tuất (1862), Trần Bích San đỗ Tam nguyên Hoàng giáp khoa Ất Sửu (1865), Trần Bích San từng được vua Tự Đức ban tặng tên là Hy Tăng). Tên húy của vua Tự Đức là Nguyễn Phúc Thì (
) mà trong bản Kiều Nôm này chữ thì hay thời () không được viết theo lối kiêng húy là (,thìn hay thần), như trong các văn bản Hán Nôm dưới thời vua Tự Đức, ví dụ bản chụp Chinh Phụ Ngâm diễn ca chữ Nôm trong phụ lục cuốn Chinh Phụ Ngâm của Vân Bình Tôn Thất Lương, NXB Tân Việt 1950 viết húy chữ thì ra thìn hết.

Sau đó chúng tôi xem tới bản văn sách thi Đình của Trần Bích San, mà TKTC chụp lại một trang, có ghi rõ là: rút trong tập Mai Nham Thi thảo (Mai Nham là tên hiệu của Trần Bích San), do anh Nguyễn Nguyên được một người bạn cùng quê là Nguyễn Văn Huyền đưa cho và mang về từ Nam Định (quê của Trần Bích San), và theo anh Nguyên thì đây là bút tích của Trần Bích San. Xem qua chúng tôi thấy có các chữ (
), thể (), tẫn ()… được viết giản thể là (), (), ()… như thế nó chỉ là một bản sao chép lại chứ không phải chính văn, vì chính văn thi Đình không bao giờ dùng lối viết “đơn”, chúng tôi đã trao đổi với Nhà giáo Ưu tú Nguyễn Đình Thảng, một chuyên gia về Hán Nôm, và được khẳng định điều này. Rất tiếc cả tập Mai Nham thi thảo chúng tôi chưa trông thấy, dù là bản sao chụp, nên chưa có thể phân tích cụ thể hơn, nhưng bảo tờ văn sách này là thủ bút của Trần Bích San thì mới chỉ là lời nói miệng chưa qua khảo chứng.

Ông Trần Văn Chánh có ghi rõ là bên lề bản Kiều Nôm có rải rác những lời ghi chú bằng chữ Hán, nhưng chúng tôi không thấy gì cả, ông Chánh có gởi lời cảm ơn tới người xử lý lại văn bản (chắc dùng kỹ thuật sửa ảnh scan vi tính) để có một bản Kiều Nôm sạch cung cấp cho bạn đọc, nhưng riêng với chúng tôi bị mất mấy “lời chú rải rác” đó lại thấy đáng tiếc, biết đâu những chú thích đó lại có thể cho chúng ta biết thêm những thông tin về văn bản.

Cũng nên nói thêm về lời ghi chú của cụ Giản Chi được chụp in lại trong TKTC phải ngắt câu như sau: “Bản chữ nôm này do ông nội để lại. Quí là vì bút tích của cụ Tam Nguyên Vị xuân Trần Bích San, ông ngoại anh Hoàng Châu Hoạch, cháu ngoại cụ Trần. Anh Hoạch là con cụ Hoàng Tài làng Cót”. Do cụ Giản Chi quá cẩn thận đã nói Trần Bích San là ông ngoại anh Hoạch, lại ghi thêm vào “cháu ngoại cụ Trần” và không bỏ dấu chấm hay phẩy sau chữ cụ Trần nên các tác giả TKTC lại hiểu Hoàng Châu Hoạch là “cháu ngoại cụ Trần Anh Hoạch”! và cho là khó hiểu sao lại có chuyện trùng tên giữa ông bà và hàng con cháu như vậy.

Sau đây chúng tôi đưa ra một số câu ở đoạn đầu bản Kiều Nôm “Trần Bích San” mà chúng tôi tìm thấy có sai khác với các bản đã phổ biến (bản Kiều Oánh Mậu, Quan Văn Đường, Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim, Chiêm Vân Thị v.v…):

Câu 10: Bốn phương vắng (
) lặng ba (
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐỖ LAI THÚY

    “Ngữ bất kinh nhân tử bất hưu”
    (Chữ không kinh động người chết không nhắm mắt)

                                        Đỗ Phủ 

  • HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

    So với những trào lưu hiện đại chủ nghĩa có tính chất tiền phong, mối quan tâm hàng đầu của chủ nghĩa hiện sinh chưa phải là vấn đề hình thức nghệ thuật mà là vấn đề đổi mới cách nhìn về con người và thế giới.

  • DANA GIOIA

    Bởi vì tất cả mọi phương tiện truyền thông đều là phân mảnh của chính chúng ta kéo dài đến lãnh vực công cộng, bất cứ tác động nào trên chúng ta của bất cứ phương tiện truyền thông nào cũng có khuynh hướng mang những ý nghĩa khác vào một quan hệ mới.
                (Marshall McLuhan, Understanding Media)   

  • KHẾ IÊM

    Tiêu chuẩn đánh giá một bài thơ Tân hình thức hay bao gồm: ý tưởng và nhịp điệu. Ý tưởng trong thơ, nếu ai cũng biết rồi thì không còn là ý tưởng nữa, bởi vì thơ phát hiện điều mới lạ trong những sự việc thường ngày.

  • PHẠM PHÚ PHONG    

    Những trang sách này thể hiện nỗ lực nhìn và làm cho nhìn thấy Con người sẽ như thế nào và đòi hỏi điều gì, nếu ta đặt Con người vào khung cảnh của những hiện tượng bề ngoài, một cách toàn diện và triệt để. (Pierre Teilhard de Chardin).

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

    Chúng ta đi tìm trong thơ tiếng nói của chính mình. Chúng ta nói trong những ước thúc chặt chẽ của ngôn ngữ và âm nhạc. Chúng ta nói chúng một cách tự do.

  • PHẠM TUẤN VŨ

    Trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du, địa danh không chỉ xuất hiện với số lượng lớn, tần số cao, mật độ đồng đều mà còn đem lại nhiều giá trị thẩm mĩ quan trọng.

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG

    Tiểu thuyết theo xu hướng hậu hiện đại đã đặt ra nhiều vấn đề mới đối với các nhà nghiên cứu - phê bình văn học Việt Nam, buộc họ phải có những cách thức nhìn nhận, soi xét từ những hướng nghiên cứu chưa có tiền lệ.

  • ĐỖ QUYÊN   

    Chè ngon, nước chát xin mời
    Nước non non nước, nghĩa người chớ quên.

                            (Ca dao) 

  • KHẾ IÊM  

    Lâu nay, thơ Tân hình thức ít khi nhận được những góp ý rõ ràng, thẳng thắn, để mở ra những thảo luận, làm sáng tỏ thắc mắc của bạn đọc.

  • PHẠM TẤN XUÂN CAO

    Mọi câu chuyện vĩ đại, về cơ bản, là một sự phản tư lên chính nó chứ không phải là một sự phản tư về thực tại.
                Raymond Federman
    Đối tượng mỹ học thuộc về cái tinh thần nhưng lại có cơ sở của nó ở trong cái có thực
                Roman Ingarden

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG 

    Ngôn ngữ thơ ca thức dậy mỗi ngày. Ngôn ngữ ấy nuôi dưỡng tình yêu của con người đối với thiên nhiên, sự hiểu biết và nối kết của họ, và một khả năng như thế có thể mạnh hơn những tàn phá đang xảy ra.

  • ĐẶNG ANH ĐÀO

    Đã từng có một cô gái Huế trong thơ, có lẽ không một địa phương nào, đặc biệt là chốn đô thị kinh kỳ nào lại có thể in hình người phụ nữ của mình vào thơ đậm đến thế.

  • NGUYỄN VĂN HÙNG   

    Từ biểu tượng văn hóa, chó đã trở thành đề tài, cảm hứng trong nhiều loại hình nghệ thuật. Đặc biệt, trong lĩnh vực văn học, với sự thấu hiểu và đồng cảm sâu sắc về thế giới loài vật, các nhà văn đã sáng tạo nên những hình tượng đặc sắc, vừa quen thuộc, gần gũi, vừa mới lạ, độc đáo.

  • JANE CIABATTARI

    Lần đầu tiên đọc tác phẩm của Jorge Luis Borges cũng giống như khi chúng ta phát hiện ra một mẫu tự mới trong bảng chữ cái hay một nốt nhạc mới trên âm giai vậy.

  • LÊ TỪ HIỂN

    1. Ngôi sao mai lạc nẻo mưa giăng

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    Cuộc sống khả hữu luôn thử thách tôi và bạn trong bất kỳ tồn tại không gian và thời gian nào. Dĩ nhiên, suy nghĩ vậy sẽ cản trở sự vượt qua giới hạn cần phải có của bản thân.

  • MỘC MIÊN

    Là người đến với văn chương khá muộn nhưng chỉ với một tác phẩm tiểu thuyết và một tập truyện ngắn, tác giả Lê Thanh Kỳ cũng đã ghi dấu ấn đáng chú ý đối với nền văn xuôi Việt Nam đương đại.

  • PHẠM TUẤN VŨ

    Tính đa nghĩa của tác phẩm văn học không phải là vấn đề mới mẻ. Từ xưa, cổ nhân đã nói đến vấn đề “ý tại ngôn ngoại, huyền ngoại chi âm, cam dư chi vị 意在言外, 玄外之音, 甘餘之味” (ý ở ngoài lời, âm thanh ở ngoài tiếng đàn, mùi ở ngoài vị ngọt), “ngôn tận ý bất tận” 言盡意不盡 (lời cạn ý không cạn) của văn chương, nhất là thơ ca.