Nếu hình dung tiếp theo: kết cấu ảo không chỉ có khả năng cộng hưởng để chấp nhận quan hệ hữu cơ với kết cấu thực cho phép có sự hình thành tương đối hoàn chỉnh cảm giác về thế giới mà còn có khả năng chọn lọc, kiểm nghiệm, xác định logic vận động và giới hạn không gian cho kết cấu thực thì chúng ta mới giải thích nổi vì sao có nhạy cảm khác nhau, ở các mức độ khác nhau giữa người này với người khác trước cùng một hiện tượng, hình tượng nào đó của thế giới. Như vậy, xung động thuần tuý nội nguyên với khả năng cộng hưởng được với sự hấp dẫn của thế giới - dung nạp đuơc hình ảnh của thế giới - mới là nguyên bản của kết cấu ảo của cảm giác con người về thế giới. Chính khả năng cộng hưởng đó, chính khả năng dung nạp đó là khả năng gọi tên là “khả năng phản ánh thế giới” của thần kinh não bộ con người. Nhưng chính kết cấu ảo còn có khả năng đặc thù hơn là khả năng hấp dẫn với các kết cấu ảo khác của các “đơn vị” cảm giác khác trong toàn bộ hệ thống xung động sống của thần kinh não bộ nào đó của con người. Khả năng kết cấu ảo, cảm giác ảo “sao chép” được cả ấn tượng - dạng thức cảm giác trở thành nguồn năng tái sinh lại chính nó, hấp dẫn, “sao chép” được cả cảm giác ảo khác cùng với những mối quan hệ giữa chúng tạo nên một loại trạng thái cấu trúc và vận động tổng thể của tất cả các cảm giác hiện sinh và tái sinh là khả năng chỉ thần kinh não bộ con người mới có. Nếu hình dung hình ảnh của thế giới không phải ở ngoài mà ở trong đầu óc của con người thì chúng ta có thể hình dung cái thế giới “nhập ngoại” vào đầu óc đó là thế giới cấu trúc bằng vô số những kết cấu thực của cảm giác con người về thế giới bên ngoài. Như vậy, hình dung tiếp theo sẽ là: Cái thế giới khác hẳn thế giới thực đó trong đầu óc con người không phải là hình ảnh thực của thế giới bên ngoài mà là thế giới chỉ do đầu óc con người “chế tạo” ra mà thôi. Thế giới được chế tạo ra đó được gọi tên là thế giới ảo hay còn gọi là thế giới tưởng tượng của con người. Thế giới ảo đó đương nhiên là thế giới cấu trúc bằng vô số các kết cấu ảo của cảm giác con người. Và đương nhiên do cố tật của kết cấu ảo là hấp dẫn cộng hưởng với đủ loại kết cấu thực về thế giới thực nên thế giới ảo dù ảo đến mấy vẫn không thoát khỏi logic mô phỏng thế giới thực. Chính nhờ thế mà thế giới ảo có được logic hữu lí không chỉ cho cấu trúc không gian của nó - logic phát sinh, phát triển bản thân nó, mà còn có được logic hữu lí cho mọi hình tượng cùng quan hệ giữa các hình tượng của thế giới ảo ấy. Thế giới tưởng tượng của con người, nhờ thế mà kết hợp logic phi lí bản chất nhất của mình với logic hữu lí khả dĩ đã du nhập được từ thế giới bên ngoài tạo nên khả năng xa lạ hoá với chính logic và giới hạn đã du nhập - mà người ta quen gọi là đã cảm nhận khả dĩ chân thực - từ thế giới bên ngoài. Chính khả năng xa lạ hoá đó trở thành nguồn năng nhạy cảm với “sự che đậy” của thế giới bên ngoài kích thích nảy sinh phát triển logic hữu lí - nghĩa là kích thích cái mà người ta quen gọi là tìm nhận ra bí ẩn, hoá giải bí ẩn, phản ánh sâu hơn, khám phá mới về thế giới khách quan. Thế giới ảo, vì thế, bị phân chia thành nhiều loại thế giới khác nhau, nhưng chung qui có thể phân chia làm hai loại: một là, thế giới thiên ảo; và, hai là, thế giới thiên thực. Ở đây, cần phải nhìn nhận lại về bản chất cái gọi là cảm giác ảo của con người. Nó vốn là hệ thống thống nhất nào đó xung động nội nguyên của thần kinh não bộ con người, nghĩa là nó nảy sinh và vận động hoàn toàn không từ bối cảnh hấp dẫn lẫn nhau giữa thần kinh não bộ với cái gì đó của thế giới khách quan. Nhưng từ nảy sinh đến thực trạng vận động thì không đơn giản thế. Trong vận động, nó cũng không thoát khỏi định luật vạn vật hấp dẫn, dù ít ỏi đến mấy, nó cũng chịu đựng gì đó trong tương quan thời gian và không gian tuyệt đối chứa chấp vũ trụ. Như vậy, thực chất sâu xa nhất của nó là nó dù ảo, vẫn phải có khả năng cộng hưởng được với logic và giới hạn nào đó của hình tượng nào đó của thế giới khách quan. Nếu hình dung đơn giản hoá rằng logic của hình tượng nào đó ấy là trật tự các yếu tố cấu thành thì có thể gọi logic đó là “tượng”, còn giới hạn của hình tượng nào đó ấy là giới hạn không gian mà hình tượng đó chiếm lĩnh trong thế giới khách quan thì có thể gọi giới hạn đó là “hình” của hình tượng đó. Hình dung tiếp theo sẽ là: Thế giới ảo có thiên hướng mô phỏng khả dĩ logic của các ấn tượng đã có trong nguồn năng của thần kinh não bộ, chính là thế giới tư-duy-trừu-tượng của con người. Vì thế, chỉ hình dung rằng tư-duy-trừu-tượng là cơ cấu vận động thuần lí tính, nghĩa là nó chỉ nhằm phản ánh cái gì đó ở khách quan, nghĩa là nó chẳng có chút gì phi phản ánh, chẳng dính dáng gì đến cái gọi là cảm giác siêu thực của con người, làm như đã là tư duy thì chỉ có duy phản ánh thế giới khách quan theo cách hiểu cơ giới, thô thiển phản ánh luận của V.I.Lenin. Tình trạng tiếp cận tư duy đó chính là tình trạng người ta đẩy tư duy của con người ra khỏi con người, nghĩa là đẩy tư duy ra khỏi thế giới vận động mỗi một bộ não con người… Nguồn năng phi-hấp-dẫn với thế giới khách quan chính là nguồn năng bản thể đặc trưng nhất của bản thể con người, nó tồn tại và vận động trong cấu trúc tổng thể nguồn năng bản thể đó. Nó tồn tại và vận động mâu thuẫn trong thể thống nhất với nguồn năng hữu-hấp-dẫn với sự hấp dẫn của thế giới khách quan. Nguồn năng đó sinh ra logic vận động đặc trưng của bản thể con người, đương nhiên logic đó bao gồm các logic của các trạng thái khác nhau của cấu trúc vận động bản thể con người mà người ta gọi tên là tâm hồn, tình cảm, linh cảm, tâm linh... của con người. Căn nguyên sâu xa nhất của qui luật logic vận động của những cái gọi là tình cảm, tâm hồn con người không chỉ không hoàn toàn phụ thuộc vào sự chi phối của logic hiện thực cuộc sống, logic của thế giới khách quan, mà hơn thế, trong tương quan không-thời-gian với chúng, nó trái ngược, phi biện chứng và phi lí, chính là nguồn năng phi-hấp-dẫn với thế giới khách quan của bản thể con người. Nếu hình dung cho được nguồn năng phi-hấp-dẫn đó chỉ là nguồn năng phi hấp dẫn trực tiếp đối với thế giới khách quan, nghĩa là nó chỉ có hấp dẫn với cái“thế giới khách quan” đã được nội hóa - đã được nguồn năng hữu-hấp-dẫn du nhập cái gọi là “hình ảnh của thế giới khách quan” vào bộ não con người - thì chắc chắn chúng ta hình dung đúng đắn được tính chất “tự vệ cố hữu” biệt lập cấu trúc vận động của bản thể con người đối với thế giới khách quan. Và nếu chúng ta hiểu rằng phản ánh thế giới vào bộ não con người là vận động mang tên Tư duy, thì chúng ta buộc phải thừa nhận rằng, con người còn một phương thức phản ánh khác nữa. Phương thức đó là: Phương thức phản ánh chính bản thân nó của bản thể con người. Phương thức đó mang tên là phương thức Tư duy cảm tính thuần tuý của con người. Nó tạo ra nguồn năng và thế giới siêu thực, sản phẩm bản thể nhất của bản thể con người. Bởi thế, con người, không ở đâu hơn ở đó có năng lực sáng tạo thế giới siêu thực thuần tuý mang đặc thù nhân tính. Chính trong quan hệ với cái đã nhập nội qua phản ánh thế giới khách quan, nó làm nguồn năng nuôi dưỡng, kích thích nguồn năng trực tiếp phản ánh thế giới khách quan, mang đến năng lực cho nguồn năng đó. Chỉ có được hiểu như vậy, mới có thể giải thích nổi được và cho được niềm tin vào đặc thù bản thể của từng thần kinh não bộ mỗi một con người, mới có thể giải thích được vì sao mỗi con người là một thiên tài độc đáo vô song dẫu nó có chung năng lực và đặc điểm tư duy ở trạng thái nào đó, cấp độ nào đó cùng với người khác. Nói Bản thể con người mà là nói bản thể cộng đồng người, bản thể nhân loại là chẳng nói gì về Bản thể con người cả. Bởi, nói vậy là người ta khái quát hoá vô vàn cái riêng thành một cái chung. Và, khốn thay, không có cái chung nào chứa đựng nổi cái riêng, chỉ có cái riêng bất cứ nào trong số vô vàn cái riêng đó mới chứa đựng được từ ít ỏi tối thiểu đến tối đa cái chung đó. Chúng ta đều thấy trong cái thế giới tình cảm, tâm hồn con người, quả thật có cái gọi là lí trí của tình cảm, tâm hồn, cái mà các nhà khoa học gọi là logic đặc thù của tình cảm, tâm hồn con người, logic đó là phương thức cấu trúc, định hướng và qui mô vận động từ nảy sinh, hình thành, phát triển đến kết thúc của các thế giới đó. Thật là khôi hài nếu không thừa nhận vai trò căn nguyên của lao động sáng tạo ra bản thân con người là lao động thực thi bằng vận động tâm hồn, tình cảm con người. Và thế, nếu chỉ coi lao động tự sáng tạo ra bản thân mình của con người là lao động khoa học, kĩ thuật dù từ khoa học, kĩ thuật thô sơ nhất là dùng công cụ thô sơ nhất thì tất yếu trước sau gì cũng sẽ lâm vào tình trạng lãng quên con người, cái tình trạng nhằm phát triển con người xâm lấn con người, cái tình trạng đồ vật hoá con người. (nguồn: TCSH số 238 - 12 - 2008)
|
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.
PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...
TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".
MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.
TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H
TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.
TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.
NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...
BẢO CHI (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...
ĐỖ LAI THÚY Văn là người (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.
ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.
TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.
TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?
HOÀNG NGỌC HIẾN ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...
THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.
TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.
ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.
ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…
HỒ THẾ HÀ Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.